Quần thể lịch sử của Cung điện Potala
Cung điện Potala được coi là cung điện mùa đông của Đức Đạt Lai Lạt Ma từ thế kỷ thứ 7, tượng trưng cho Phật giáo Tây Tạng và cũng là thủ phủ của chính quyền Tây Tạng. Đây là một công trình biểu trưng cho quyền lực gắn liền với các đời Đạt Lai Lạt Ma và Tạng Vương, đóng vai trò gìn giữ, truyền bá văn hóa truyền thống của Tây Tạng.
Cung điện và Vườn SchnbrunnThành phố như bức tranh nghệ thuật ở Yemen Làng lịch sử Shirakawa-go và Gokayama
Nằm trên đỉnh Núi Hồng ở độ cao 3.700m hướng ra thung lũng Lhasa, Cung điện Potala cao 170m này được xem là cung điện đồ sộ và nguy nga nhất trong tất cả các kiến trúc cung điện ở Tây Tạng. Theo truyền thuyết, trong ngọn núi này có một hang động vô cùng linh thiêng, và từng là nơi ở của một vị Bồ Tát Quán Âm (còn được gọi là ‘Chenrezi’ trong tiếng Tây Tạng), một vị Bồ tát là hiện thân của lòng từ bi của các chư Phật. Đức vua Songtsen Gampo đã từng sử dụng hang động này như một nơi nghỉ ngơi để tọa thiền. Vào thế kỷ thứ 7, năm 637, thời đức vua Songtsen Gampo còn đang tại vị, ngài đã cho xây dựng cung điện này.
Quần thể lịch sử của cung điện bao gồm: Khu phức hợp cung điện Trắng và Đỏ với các tòa nhà phụ trợ. Cũng được xây dựng vào thế kỷ thứ 7, Tu viện Đền Jokhang là một quần thể tôn giáo Phật giáo đặc biệt. Norbulingka, cung điện mùa hè trước đây của Đạt Lai Lạt Ma, được xây dựng vào thế kỷ 18, là một kiệt tác của nghệ thuật Tây Tạng. Vẻ đẹp kiến trúc độc đáo của ba địa điểm này, sự trang trí phong phú và hài hòa làm nổi bật lịch sử và tôn giáo của chúng.
Bao quanh cung điện Trắng (Bạch Cung), cung điện Đỏ (Hồng Cung) và các tòa nhà phụ trợ của Cung điện Potala là những bức tường lớn, cổng và tháp pháo được xây dựng bằng đất nung và đá. Cung điện Trắng chứa hội trường nghi lễ chính với ngai vàng của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Cung điện có 698 bức tranh tường, gần 10.000 bàn thờ các chư Phật, nhiều tác phẩm điêu khắc, thảm, tán, rèm cửa, đồ sứ, ngọc bích, và các đồ vật bằng vàng và bạc, cũng như một bộ sưu tập lớn các tài liệu lịch sử quan trọng. Ở phía tây và trên cao hơn, Cung điện Đỏ chứa các Kim tháp (mộ táng được làm bằng vàng) của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Xa hơn về phía tây là tu viện tư nhân của Đạt Lai Lạt Ma, Namgyel Dratshang.
Tu viện chùa Jokhang được thành lập vào thế kỷ thứ 7, nhằm thúc đẩy tôn giáo Phật giáo. Với diện tích 2,5 ha ở trung tâm của khu phố cổ Lhasa, tu viện bao gồm một cổng vào, sân trong và hội trường Phật giáo được bao quanh bởi chỗ ở cho các nhà sư và nhà kho ở cả bốn phía. Các tòa nhà được xây dựng bằng gỗ và đá theo phong cách Phật giáo Tây Tạng, với những ảnh hưởng từ Trung Quốc, Ấn Độ và Nepal. Nơi đây lưu trữ hơn 3.000 hình ảnh của Đức Phật,các vị thần và các nhân vật lịch sử cùng với nhiều kho báu và bản thảo khác. Những bức tranh tường mô tả cảnh tôn giáo và lịch sử bao phủ khắp các bức tường.
Video đang HOT
Norbulingka, cung điện mùa hè trước đây của Đạt Lai Lạt Ma được xây dựng vào thế kỷ 18, nằm trên bờ sông Lhasa cách Cung điện Potala khoảng 2km về phía tây trong một cảnh quan xanh mát. Nó bao gồm một khu vườn rộng lớn với bốn khu phức hợp cung điện và một tu viện cùng các tòa nhà hội trường, các gian nhà hài hòa với bố cục khu vườn để tạo ra một tác phẩm nghệ thuật đặc biệt trên một diện tích 36 ha.
Năm 1994, Quần thể lịch sử cung điện Potala đã được Tổ chức Giáo dục, khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới.
Theo ngaynay.vn
Mông Cổ bí ẩn và đầy huyền bí là điểm đến không thể bỏ qua của mọi du khách ưa khám phá
Ở phương Tây, Mông Cổ gợi lên tên của Thành Cát Tư Hãn và cuộc chinh phục vĩ đại trong thế kỷ thứ 13. Đế chế của ông kéo dài từ biển Địa Trung Hải đến Thái Bình Dương và danh tiếng của những người lính tàn nhẫn của Genghis đã tồn tại cho đến ngày hôm nay.
Nhưng Mông Cổ ngày nay đem đến một bức tranh hoàn toàn khác. Đây là những người du mục, trong nhiều thế kỷ, đã tìm cách sống sót trong một môi trường khá khắc nghiệt. Người Mông Cổ ngày nay là tín đồ của Phật giáo Tây Tạng, được biết tới lần đầu tiên vào cuối thế kỷ 13.
Nằm ở vị trí chiến lược giữa Nga, Trung Quốc và Tây Tạng, Mông Cổ đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử châu Á. Sau cái c.hết của Genghis, cháu trai của ông, Khubilai Khan, là người cai trị đầu tiên trong thời nhà Nguyên, thời kỳ cai trị của Mông Cổ kéo dài gần 100 năm. Sau thời nhà Nguyên, nhiều người Mông Cổ khác nhau đã cố gắng tái tạo đế chế của Genghis và mơ về một thời đại Mông Cổ mới. Vào thế kỷ 16, mối quan hệ dựa trên Phật giáo giữa Tây Tạng và Mông Cổ do Khubilai tạo ra đã được thiết lập lại, tạo ra sự phục hưng trong nghệ thuật, văn học, cấu trúc chính trị và tôn giáo của Mông Cổ kéo dài suốt thế kỷ 18.
Cuộc sống du mục
Người Mông Cổ, từ thời cổ đại, đã sống trong các nhóm bộ lạc, chịu đựng khí hậu và cảnh quan khắc nghiệt, với những ngọn núi gồ ghề, sa mạc ở phía nam và vùng đất thảo nguyên khô cằn và mùa đông khắc nghiệt ở phía bắc. Người Mông Cổ là những người cưỡi ngựa nổi tiếng. Ở nông thôn, người Mông Cổ vẫn dành phần lớn cuộc đời của họ trên lưng ngựa. Con ngựa, cùng với cừu, dê, bò và lạc đà, là nền tảng của nền kinh tế Mông Cổ. Cuộc sống du mục được phản ánh trong nghệ thuật của Mông Cổ. Sáng tạo nghệ thuật thường được hướng vào các tác phẩm nghệ thuật di động như yên ngựa, bẫy ngựa và trang sức cá nhân.
Văn hóa Mông Cổ
Văn hóa Mông Cổ có nhiều nét đặc sắc gắn liền với lối sống. Từ thời xa xưa, người Mông Cổ đã sống ở vùng đất rộng lớn ở Trung Á để chăn nuôi gia súc. Lối sống du mục này được phản ánh trong suy nghĩ và văn hóa hằng ngày. Một trong những nét độc đáo của văn hóa du mục là con người sống hòa hợp hoàn toàn với mẹ thiên nhiên. Nhiều truyền thống, phong tục và giáo lý nhấn mạnh đến việc bảo vệ và chăm sóc thiên nhiên. Vặt hoa, cỏ, ném đồ bẩn thỉu vào hệ thống nước, đào đất, làm hại động vật và phá rừng được coi là tội lỗi và bị nghiêm cấm từ xưa cho đến nay.
Người Mông Cổ có lịch sử lâu dài về chăn nuôi và chăm sóc gia súc. Trong khi ngựa, gia súc, cừu, dê và lạc đà được ca ngợi là 'năm báu vật', thì ngựa được coi là 'ngọc lục bảo' và được đ.ánh giá cao. Hàng ngàn giáo lý, tục ngữ, câu chuyện, bài hát và điệu nhảy đã được tạo ra để ca ngợi năm kho báu này.
Lịch sử bí mật là một di tích lịch sử và văn hóa nổi bật của một tác giả ẩn danh từ khoảng năm 1240. Nó là sự kết hợp giữa lời kể lịch sử, văn hóa dân gian và thơ ca cũ trình bày một câu chuyện thẳng thắn về Thành Cát Tư Hãn và thời đại của ông.
Phật giáo đã đóng một vai trò to lớn trong sự phát triển của văn hóa Mông Cổ. Nhận thức, tâm lý, truyền thống, suy nghĩ và triển vọng thế giới của họ đã được làm phong phú bởi triết lý Phật giáo và thế giới quan.
Sa mạc Gobi, Taiga, thảo nguyên và núi
Gobi là sa mạc lớn thứ hai trên thế giới, bao phủ một phần ba phía nam của đất nước. Gobi là nhà của nhiều loài vật hiện đang bị đe dọa, bao gồm Gấu Gobi, lạc đà hoang dã. Các khu vực rừng núi của núi Khentei, Khangai và Mông Cổ Altai chiếm khoảng 25% lãnh thổ của đất nước. Những ngọn núi Altai Nuruu ở vùng viễn tây của Mông Cổ bị tuyết phủ vĩnh viễn. Ngọn núi cao nhất ở Mông Cổ, đỉnh Kulten đạt 4374 mét. Vùng thảo nguyên của Mông Cổ chiếm khoảng 20% lãnh thổ. Các đồng cỏ lăn của khu vực này là một phần của thảo nguyên lớn trải dài từ Đông Âu đến Mãn Châu.
Khu rừng Taiga nổi tiếng ở phía bắc Mông Cổ, giáp Siberia, là một phần của khu rừng liên tục lớn nhất thế giới. Bao phủ 8% lãnh thổ của Mông Cổ, các khu rừng phần lớn được tạo thành từ những cây thông thường ở Siberia phát triển mạnh trong mùa đông tuyết của Taiga và mùa hè mưa.
Cái nôi của nhiều dân tộc
Trong khi Mông Cổ nổi tiếng là vùng đất của Thành Cát Tư Hãn vĩ đại, không nhiều người biết rằng cao nguyên Mông Cổ và các khu vực xung quanh là những cái nôi của người Hung, người Thổ Nhĩ Kỳ và một số dân tộc Siberia. Các nhà khoa học tin rằng người Anh-điêng cũng đến từ nơi này trên thế giới.
Lịch sử hậu đế chế của Mông Cổ không được biết đến nhiều. Đó là một lịch sử của một dân tộc đấu tranh để giữ gìn bản sắc, đấu tranh sinh tồn khi hai nước láng giềng Nga và Trung Quốc đang mở rộng lãnh thổ trong thế kỷ 16 đến 19. Nó cũng là một lịch sử của sự cạnh tranh quyền lực lớn cho các phạm vi ảnh hưởng và thông đồng cửa sau.
Lịch sử thế kỷ 20
Thế kỷ 20 chứng kiến Mông Cổ tự giải thoát khỏi hai thế kỷ cai trị của Mãn Châu, đấu tranh thành công để giành độc lập hoàn toàn, và chịu đựng sự chiếm đóng của Trung Quốc trong thời gian ngắn, sau đó là cuộc cách mạng quốc gia thành công với sự ủng hộ của Liên Xô.
Thế kỷ 20 cũng chứng kiến sự hồi sinh của Mông Cổ như một quốc gia độc lập, dân số tăng trưởng ổn định và phục hưng văn hóa cùng với nỗ lực Nga hóa hình thức và nội dung của nó. Nền tảng của một nền kinh tế hiện đại đã được thiết lập, mặc dù phụ thuộc rất nhiều vào Liên Xô.
Thương mại và du lịch
Tư cách thành viên của Mông Cổ trong Tổ chức Thương mại Thế giới đang tạo ra nhiều điều kiện thương mại thuận lợi hơn. Mặc dù Mông Cổ có một thị trường nhỏ, nhưng vị trí kinh tế địa lý của nó, tức là giữa hai thị trường lớn và đang mở rộng của Trung Quốc và Nga, khiến Mông Cổ trở thành đối tác thương mại và kinh tế hấp dẫn cho những người khác, bao gồm cả Hoa Kỳ.
Khi ngày càng có nhiều khách du lịch và các nhà thám hiểm tìm cách khám phá các khu vực ít đi lại trên thế giới, Mông Cổ cung cấp một nền văn hóa hấp dẫn và lôi cuốn trong một môi trường tự nhiên hoang sơ. Các chuyến thám hiểm độc đáo đến Mông Cổ, từ trekking lạc đà ở Gobi, đến cưỡi ngựa qua phía tây Mông Cổ, đến đi bộ dễ dàng và ở phía sau hậu trường trong các ngôi nhà bản địa đều có sẵn.
Theo danviet.vn
Hãy một lần ghé thăm "nóc nhà của thế giới" khi bạn đang còn trẻ Được xem như một trong những thánh địa Phật giáo nổi tiếng vào bậc nhất thế giới, Tây Tạng không chỉ có thảo nguyên, tuyết và cát mà còn là thiên đường của những công trình kiến trúc Phật giáo nổi tiếng, dễ dàng chinh phục những du khách dù khó tính nhất. Từ những cảnh quan hùng vĩ không nơi nào có...