Quân đội Trung Quốc đã từ bỏ đế chế kinh doanh tỷ USD như thế nào?
Từ năm 1993, Trung Quốc bắt đầu hạn chế quân đội làm kinh tế, nhưng phải đến năm 1999 họ mới đạt kết quả đáng kể.
Trung Quốc không phải quốc gia duy nhất trên thế giới có quân đội tham gia hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, theo tạp chí quân sự Jane’s Defence Weekly, quân đội nước này – PLA chính là cái tên đi tiên phong và cũng là nổi bật nhất.
Quân đội Trung Quốc từng sở hữu đế chế kinh doanh tỷ USD. Ảnh: Reuters
Trong cuốn “Soldiers of Fortune”, tác giả James C. Mulvenon cho biết hoạt động kinh doanh của quân đội Trung Quốc đã có từ khá sớm. Giai đoạn 1927 – 1950, quân đội đã được cho phép tự cung cấp tài chính bằng cách điều hành các nhà máy và trang trại. Việc này tiếp tục kéo dài trong thời kỳ Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông.
Tuy nhiên, phải đến đầu thập niên 80, mô hình này mới phát triển mạnh, với sự hậu thuẫn của lãnh đạo Trung Quốc – Đặng Tiểu Bình, Forbes cho biết. Nhằm hiện đại hóa kinh tế và kiểm soát chặt chi tiêu quốc phòng, ông cho phép quân đội sử dụng tài nguyên và cơ sở vật chất của mình để tăng sản xuất phục vụ dân sinh.
Từ đó, mạng lưới kinh doanh của quân đội Trung Quốc bùng nổ. Họ làm mọi thứ, từ nuôi lợn, lập hãng hàng không, mở bệnh viện, đào than đến kinh doanh khách sạn và dịch vụ viễn thông. Thậm chí, 3 trong 12 câu lạc bộ trong giải bóng rổ chuyên nghiệp Trung Quốc cũng do các đơn vị của PLA sở hữu. Nhiều hãng dược phẩm và dệt may lớn nhất nước cũng nằm trong tay quân đội.
Nhìn từ bên ngoài, người ta có thể dễ dàng kết luận PLA kiểm soát phần lớn ngành công nghiệp và thương mại Trung Quốc. New York Times cũng cho biết “Phần lớn việc kinh doanh của các công ty Mỹ tại Trung Quốc là với các doanh nghiệp do quân đội kiểm soát”.
Sau 14 năm, quân đội Trung Quốc đã phát triển được một đế chế kinh doanh toàn cầu. Economist dẫn thông tin từ giới truyền thông Trung Quốc cho biết thời đó, đế chế này trị giá 50 tỷ NDT (6 tỷ USD) với lợi nhuận hàng năm khoảng 600 triệu USD. Tổng số doanh nghiệp quân đội vào khoảng 20.000 trên cả nước.
Tuy nhiên, Tai Ming Cheung – nhà phân tích tại công ty chứng khoán Kim Eng, và cũng là tác giả một cuốn sách về PLA ước tính số doanh nghiệp họ sở hữu vào khoảng 15.000, tạo ra doanh thu 10 tỷ USD mỗi năm. Cheung cho rằng doanh thu này phải tăng khoảng 10-15% mỗi năm.
Dù vậy, việc quản lý hàng nghìn doanh nghiệp rất thiếu sự tập trung. Nhiều công ty được điều hành bởi một sĩ quan quân đội hoặc quân nhân đã nghỉ hưu. Công ty khác lại do dân thường quản lý. Trên lý thuyết, Tổng cục Hậu cần Quân đội Trung Quốc là cơ quan quản lý hoạt động kinh doanh của PLA. Tuy nhiên, chính họ cũng từng công khai thừa nhận chẳng biết có bao nhiêu doanh nghiệp thuộc quyền kiểm soát của quân đội, chứ chưa kể đến việc kiểm toán.
Việc này đã khiến giới chức Trung Quốc đau đầu. Nhiều công ty thuộc các đơn vị của PLA còn bị cáo buộc làm giả sản phẩm hay buôn lậu xe sang. Đến thập niên 90, Chủ tịch Trung Quốc khi ấy – Giang Trạch Dân nhận ra việc các cơ quan nhà nước tham gia quá sâu vào kinh doanh chính là rào cản với cải tổ và quản lý.
Giai đoạn tháng 11 – 12.1993, Trung Quốc ra hàng loạt quy định nhằm hạn chế hoạt động kinh doanh của quân đội. Theo đó, họ cấm các đơn vị dưới cấp tập đoàn quân (army group) tham gia vào giao dịch thương mại. Tuy nhiên, chiến dịch này chỉ thành công một phần.
Đến năm 1995, nó được sửa đổi thành lệnh cấm với các đơn vị dưới cấp quân khu. Nỗ lực này cũng chẳng mấy thành công.
Cuối cùng, đến tháng 7.1998, giới chức Trung Quốc ra lệnh toàn bộ các đơn vị quân đội, cảnh sát nhân dân có vũ trang, các cơ quan an ninh quốc gia và công cộng phải bán hết cổ phần, đồng thời rút khỏi mọi hoạt động kinh doanh. Việc này phải hoàn tất vào tháng 12 cùng năm.
Video đang HOT
Lần này, các lãnh đạo Trung Quốc rất kiên quyết. Cũng như tất cả chính sách lớn khác, họ thành lập một nhóm gồm đại diện các cơ quan cấp cao nhất để thực hiện việc này.
Cựu Thủ tướng Trung Quốc – Chu Dung Cơ. Ảnh: SPH
Đầu tiên là Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc – Phó Toàn Hữu. Ông đã nhận thức được tác động tiêu cực mà kinh doanh gây ra với hoạt động luyện tập cũng như tinh thần sẵn sàng của quân đội và từ lâu vẫn đề nghị kìm hãm việc này.
Thứ hai là lãnh đạo đảng, nắm quyền đúng thời điểm các vụ buôn lậu của quân đội Trung Quốc ở phía Nam trở nên tràn lan và tham nhũng xảy ra khắp nơi. Thứ ba là tân Thủ tướng – Chu Dung Cơ. Ông khẳng định nếu Trung Quốc muốn xây dựng “một sân chơi công bằng” cho nhà đầu tư trong nước và quốc tế, đồng thời đáp ứng tiêu chuẩn để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), quân đội cần rút khỏi mọi hoạt động kinh doanh và bán hết tài sản tài chính.
Đây là lệnh cấm được thực hiện kiên quyết nhất từ trước đến nay. Dĩ nhiên, nó cũng không đảm bảo được tuân theo hoàn toàn. Rất nhiều đơn vị đã tìm cách giấu tiền và tài sản trong các tài khoản ngân hàng ở nước ngoài.
Năm 1999, tạp chí Shidai Chao thuộc People’s Daily cho biết đợt kiểm toán đầu năm cho thấy 10% doanh nghiệp vẫn không tuân theo lệnh trên. Dù vậy, hơn 2.900 công ty đã được chuyển giao cho nhà nước và gần 4.000 công ty khác đã đóng cửa trước hạn chót tháng 12.1998.
Sau đó, giới chức đặt ra hạn chót lần 2 là tháng 8.1999. Đến lúc này, thêm hơn 3.500 doanh nghiệp nữa đã được chuyển giao. Số nhân lực của các công ty này lên tới 230.000 người.
Chỉ trong một năm, khoảng 90% doanh nghiệp thuộc PLA đã phải chuyển lại tài sản cho một cơ quan nhà nước có tên SETC Handover Office. Cơ quan này được lập ra bởi Ủy ban Thương mại và Kinh tế Nhà nước (SETC) Trung Quốc.
Dù vậy, Xinhua trích lời Jiang Luming – Giáo sư Đại học Công nghệ Quốc phòng Trung Quốc cho biết quân đội vẫn được dùng tài nguyên dư thừa để cung cấp dịch vụ cho người dân tại 15 lĩnh vực, do ngành dịch vụ của Trung Quốc khi đó còn yếu. Những dịch vụ này đã giúp phát triển kinh tế trong nước, tạo sự tiện lợi cho người dân và bù đắp thiếu hụt trong chi tiêu quốc phòng.
Tuy nhiên, những năm gần đây, khi kinh tế thị trường phát triển và hoạt động kinh doanh còn nhiều kẽ hở, ngày càng nhiều vụ tham nhũng có sự tham gia của quân đội xuất hiện. Tháng 11 năm ngoái, Bộ Quốc phòng Trung Quốc tuyên bố các hoạt động không thiết yếu như bệnh viện và khách sạn quân đội phục vụ dân chúng sẽ bị dừng hoạt động.
Tháng 5 năm nay, Quân ủy Trung ương Trung Quốc cũng thông báo sẽ chấm dứt mọi hoạt động kinh tế của quân đội, để tập trung vào việc bảo vệ đất nước. Việc này sẽ được chia làm 2 giai đoạn, hoàn thành cuối tháng 6 này và cuối tháng 6/2018. Đợt một gồm 10 lĩnh vực, và đợt 2 là 5 lĩnh vực còn lại.
Theo Xinhua, những thay đổi này nhằm “giảm tham nhũng trong quân đội”. Nó nằm trong chiến dịch chống tham nhũng “đả hổ diệt ruồi” đã được Chủ tịch nước này – Tập Cận Bình phát động cách đây 3 năm.
Theo Hà Thu (Vnexpress)
Kinh tế quốc phòng và quốc phòng làm kinh tế
Thật trớ trêu, đất của quân đội, với nhiệm vụ thiêng liêng là đảm bảo an ninh quốc phòng, trong trường hợp này lại bị doanh nghiệp dùng để sản xuất phân bón giả.
Khi sân bay Tân Sơn Nhất (TP.HCM) rơi vào tình trạng quá tải đến mức lãnh đạo Cục Hàng không Việt Nam phải đưa ra một đề xuất hết sức lạ lùng, đó là khi máy bay trả khách ở Tân Sơn Nhất xong đi đậu qua đêm ở sân bay Cần Thơ, sang hôm sau bay trở lại TP.HCM để đón khách và cất cánh tiếp, trong khi cạnh đó là một sân golf với đất đai mênh mông chỉ phục vụ cho thú vui của một thiểu số người, dư luận mới đặt ra câu hỏi tại sao đất quốc phòng lại biến thành một sân golf như vậy?
Mà đâu chỉ có sân golf Tân Sơn Nhất nằm cạnh sân bay Tân Sơn Nhất được xây dựng trên đất quốc phòng. Tại Hà Nội, sân golf Long Biên cũng nằm trên đất quốc phòng, cạnh sân bay quân sự Gia Lâm.
Toàn cảnh sân golf trong sân bay Tân Sơn Nhất
Khi Công ty Cổ phần Sản xuất, thương mại Thuận Phong (Đồng Nai) bị phát hiện sản xuất phân bón giả, kém chất lượng quy mô lớn, dư luận lại một lần nữa biết đến tình trạng đất quốc phòng đang được cho tư nhân thuê lại.
Cụ thể, Công ty Thuận Phong thuê đất của Cục Quân khí, Tổng cục Kỹ thuật, Bộ Quốc phòng, để sản xuất phân bón. Thật trớ trêu, đất của quân đội, với nhiệm vụ thiêng liêng là đảm bảo an ninh quốc phòng, trong trường hợp này lại bị doanh nghiệp dùng để sản xuất phân bón giả.
Và mới đây, tại Đà Nẵng, một lần nữa, báo chí lại phải đưa tin về tình trạng đất quốc phòng cạnh sân bay Đà Nẵng được Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân cho Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Nam Sinh thuê. Công ty này lại đem phân lô và cho thuê lại, dẫn đến tình trạng xây dựng nhà xưởng trái phép.
Còn bao nhiêu những sân golf, những xưởng sản xuất phân bón giả, những khu đất quốc phòng bị tư nhân phân lô và xây dựng trái phép như vậy?
Có bao nhiêu nguồn lực quốc gia dành cho quân đội, bây giờ trở thành những toà nhà chung cư, những khách sạn... với danh nghĩa quốc phòng làm kinh tế?
Cá nhân tôi hoàn toàn đồng ý với Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng về vấn đề kinh tế quốc phòng.
"Có một điều tôi nhấn mạnh, muốn làm quân đội mạnh lên trước hết chúng ta phải bảo vệ quân đội, bảo vệ những chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, mà trong đó chủ trương quân đội làm kinh tế phục vụ quốc phòng và tham gia phát triển kinh tế đất nước là một ví dụ. Nhưng phải khẳng định rõ ràng và dứt khoát, là quân đội chỉ làm kinh tế ở những lĩnh vực cần thiết, đúng chức năng nhiệm vụ, đúng chủ trương lãnh đạo của Đảng và phải thực hiện đúng pháp luật, không có ngoại lệ", ông Vịnh nói.
Đã đến lúc, quân đội nhân dân cần tách bạch giữa kinh tế quốc phòng và quốc phòng làm kinh tế.
Kinh tế quốc phòng là tham gia sản xuất, chế tạo vũ khí, nghiên cứu khoa học, nâng cao công nghệ quân sự, tham gia làm kinh tế ở tuyến đầu của Tổ quốc, khi thời bình thì tăng gia sản xuất nơi biên ải xa xôi, để dân lùi về tuyến sau.
Quân đội nhân dân Việt Nam duyệt binh nhân 70 năm Giải phóng Thủ đô. Ảnh: Ngọc Thọ
Nếu đất nước có chiến tranh thì họ đã ở tuyến đầu, lập tức cầm súng đứng lên chiến đấu. Kinh tế quốc phòng buộc phải là những lĩnh vực phục vụ cho nhiệm vụ an ninh, quân sự mà dân sự không thể tham gia được. Những lĩnh vực này, quân đội thực hiện là cần thiết và hoàn toàn dễ hiểu.
Tuy nhiên, điều này khác hoàn toàn với quốc phòng làm kinh tế. Sẽ thật khó hiểu khi lực lượng quân sự lại tham gia vào cả những ngành dân sự như may mặc, xây dựng, bất động sản, bảo hiểm... Đây là những lĩnh vực mà doanh nghiệp nhà nước cũng không nên tham gia, chưa nói đến lực lượng quốc phòng.
Đơn giản là vì, tất cả những lĩnh vực ấy, doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn có thể đảm đương và thậm chí hoạt động hiệu quả hơn rất nhiều.
Hơn thế nữa, khi quốc phòng làm kinh tế, với những lợi thế về nguồn lực đất đai, nhân lực, tài lực... sẽ dẫn đến nguy cơ làm méo mó nền kinh tế bởi tình trạng cạnh tranh bất bình đẳng.
Ngay từ khâu thu hồi đất để phục vụ cho dự án đầu tư, doanh nghiệp tư nhân thì chật vật, chạy vạy đủ đường, nhưng quân đội làm kinh tế thì có sẵn quỹ đất quốc phòng. Trong khi đó, đất quốc phòng thì việc thu hồi đương nhiên sẽ thuận tiện.
Đến khâu sử dụng đất, theo Luật đất đai, đất quốc phòng lại được nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất.
Như vậy, quân đội làm kinh tế được hưởng một cơ chế ưu ái hơn hẳn các thành phần kinh tế khác. Đó là sự ưu ái về một tư liệu sản xuất vô cùng quan trọng là đất đai. Trong khi các dự án đầu tư khác, nếu không thuộc danh mục được ưu đãi đầu tư, thì hẳn nhiên nhà đầu tư phải đóng tiền sử dụng đất.
Chính phủ, trong nhiều năm qua vẫn đề nghị các tổ chức quốc tế và các quốc gia trên thế giới công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường. Điều đó là cần thiết cho việc tăng cường giao lưu thương mại quốc tế và phát triển kinh tế đất nước.
Nhưng, rõ ràng là không một nền kinh tế thị trường nào chấp nhận một thành phần kinh tế mà sự tồn tại của nó không đảm bảo được tính cạnh tranh bình đẳng. Bởi đây là thứ cốt lõi của kinh tế thị trường.
Cá nhân tôi cho rằng, đã đến lúc cần phải rà soát đất đai quốc phòng đang quản lý, đảm bảo sử dụng đúng mục đích quốc phòng, không để đất quốc phòng trở thành những xưởng sản xuất phân bón giả hay những trung tâm tiệc cưới... Nếu đất quân đội chưa có nhu cầu sử dụng, nên giao lại cho các địa phương để đấu giá công khai, minh bạch. Đây là một nguồn thu không nhỏ cho ngân sách nhà nước.
Các lĩnh vực kinh tế mà dân sự có thể tham gia, phía quân đội nên từng bước giao lại cho Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) quản lý. Sau đó SCIC phải thoái vốn bằng hình thức đấu giá công khai. Hãy dành các nguồn lực ấy cho tư nhân thực hiện. Khi đó, doanh nghiệp tư nhân sẽ có nghĩa vụ nộp thuế vào ngân sách Nhà nước. Nhà nước lại dùng ngân sách ấy để nuôi lực lượng quốc phòng.
Nhiều nước trên thế giới vẫn làm như vậy. Và họ vẫn có một nền kinh tế thịnh vượng, một lực lượng quân đội tinh nhuệ, hùng mạnh.
Việt Nam cũng có thể trở thành một quốc gia giàu và mạnh. Từ trong sâu thẳm trái tim người Việt vẫn luôn yêu thương hình ảnh người lính, dù trong thời bình hay thời chiến.
Bởi từ trong máu thịt người Việt, ai cũng sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc, sẵn sàng cống hiến tất cả nhân lực, tài lực bằng tinh thần "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người" cho những người lính ra chiến trường.
Quân đội, nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả là rèn luyện và sẵn sàng chiến đấu để có hoà bình, để bảo vệ cho nền độc lập, để giữ vững chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, để bảo vệ cho từng tấc đất máu thịt của quê hương.
Theo Danviet
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: Quân đội chỉ ngừng làm kinh tế đơn thuần Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng khẳng định, quân đội sẽ không đi ngược lại với lợi ích của nhân dân. Về vấn đề quân đội không làm kinh tế, Thượng tướng khẳng định, quân đội không làm kinh tế đơn thuần nhưng quân đội vẫn làm kinh tế quốc phòng. Đó lại một nội dung rất được quan...