Quá trình phát triển của công nghệ hiện đại trên ôtô
Các công nghệ hiện đại đã lần lượt xuất hiện trên ôtô từ nhưng năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, và chứng minh khả năng sáng tạo vẫn còn rất lớn.
Quá trình “tiến hóa” của ôtô đã diễn ra từ cách đây rất lâu trong khi công nghệ trên xe còn phát triển nhanh hơn nữa. Chiếc ôtô đầu tiên được phát minh vào năm 1886 như Mercedes-Benz đã từng công bố, và sau đó Henry Ford đã cách mạng hóa ngành công nghiệp này với mẫu Model T được sản xuất năm 1908.
Các công nghệ hiện đại được phát triển cho ôtô từ năm 1990 đến nay.
Vào năm 1922, bộ đánh lửa điện tử đã thay thế tay quay khởi động nhưng mãi đến năm 1949, Chrysler mới giới thiệu khả năng đánh lửa bằng cách vặn chìa khóa vào các xe được sản xuất đại trà. Bộ phận châm lửa thuốc lá được tích hợp trong ôtô vào năm 1921, sau đó là radio vào năm 1930.
Sau đó, tay lái trợ lực điện xuất hiện từ năm 1951, điều hòa không khí được Chrysler trang bị cho xe vào năm 1953. Dây đai an toàn 3 điểm xuất hiện vào năm 1959 trên các mẫu xe Volvo. Bảng điều khiển kỹ thuật số đầu tiên xuất hiện vào năm 1974, túi khí trở thành tiêu chuẩn trên ôtô từ năm 1980 và đến những năm 90, các công nghệ ôtô thực sự nâng lên tầm cao hơn, đó là thời điểm bắt đầu của sự hiện đại hóa.
Năm 1990: Hệ thống định vị vệ tinh tích hợp
Trước đây, tài xế phải sử dụng bản đồ giấy và chỉ đường bằng văn bản. Sau đó, các công ty ôtô bắt đầu trang bị hệ thống định vị tích hợp, chủ yếu để xác định chính xác vị trí của xe. Sau đó, vào năm 1990, Mazda là nhà sản xuất đầu tiên đưa hệ thống định vị dựa trên GPS lên một chiếc ôtô. Còn ở Mỹ, hệ thống định vị GPS đầu tiên trên xe đến từ Oldsmobile và là tùy chọn có giá 1.995 USD vào năm 1995. Mãi đến năm 2000, chính phủ Mỹ mới đưa tín hiệu GPS chính xác hơn cho mục đích dân sự và khả năng dẫn đường dựa trên GPS dần trở nên phổ biến từ đó.
Năm 1996: Xe kết nối
Thuật ngữ “xe kết nối” đã trở nên thông dụng trong thế kỷ 21 nhưng chính GM đã làm việc cùng Motorola để tạo ra hệ thống kết nối đầu tiên cho một chiếc ôtô và gọi nó là Onstar. Các hệ thống viễn thông Onstar đầu tiên có thể gọi dịch vụ khẩn cấp nếu phát hiện một túi khí trên xe đã bung, và nó được trang bị cho những mẫu Cadillac Eldorado, Deville và Seville. Theo thời gian, khả năng thêm các vị trí GPS, truyền giọng nói và dữ liệu được phát triển cùng lúc. Onstar hiện vẫn là một tính năng trên ôtô và đang ở thế hệ thứ 10 của mình.
Năm 1998: Màn hình hiển thị trên kính lái có màu
Màn hình hiển thị trên kính lái (HUD) là một sáng tạo trong khoa học viễn tưởng những năm 80. Tuy nhiên, công nghệ này đã trở thành hiện thực vào năm 1998 với mẫu Oldsmobile Cutlass Supreme Indy Pace Cars và các bản sao. Sau đó, Toyota và Nissan dần cung cấp chúng trên các mẫu xe và hiện nay màn hình HUD đã trở nên phổ biến cho ôtô, và là một trang bị cao cấp. Hầu hết các hệ thống HUD đều có màu sắc để thu hút sự chú ý của người lái vào các thông tin thích hợp, Chevrolet Corvette là mẫu xe đầu tiên có màn hình HUD màu, ra mắt vào năm 1998.
Năm 1999: Kiểm soát hành trình chủ động bằng laze
Mitsubishi đã đi tiên phong với công nghệ kiểm soát hành trình điều khiển bằng laze, sử dụng bướm ga và hộp số để điều khiển tốc độ xe thay vì phanh. Sau đó, Mercedes đã giới thiệu hệ thống Distronic vào năm 1999 trên S-Class và CL như một hệ thống kiểm soát hành trình tự động đầu tiền được hỗ trợ bởi radar trên toàn cầu.
Năm 2000/2001: Bluetooth
Kết nối Bluetooth với điện thoại di động là một điều gần như không thể thiếu ngày nay, đến năm 2020, rất hiếm có mẫu xe nào được bán ra mà không tích hợp công nghệ này. Tuy nhiên, vào giữa những năm 90, các chủ xe chỉ có thể mua bộ đầu giải trí có Bluetooth để lắp thêm, và phải mất vài năm sau, tính năng kết nối này mới chính thức xuất hiện trên ôtô như một tùy chọn. Chrysler từng coi việc tích hợp Bluetooth lên ôtô là một ý tưởng tuyệt vời từ lâu nhưng nhiều khả năng Acura TL mới là mẫu xe đầu tiên trang bị Bluetooth tại Mỹ.
Năm 2001: Hệ thống giải trí hiện đại
Khá khó xác định thời điểm ra đời của hệ thống giải trí như hiện gày. Năm 2001, BMW giới thiệu hệ thống iDrive của mình cho 7 Series vào năm 2001 với một màn hình nổi bật được điều khiển bởi một núm trung tâm. Tuy nhiên, màn hình cảm ứng xuất hiện lần đầu trên một chiếc ôtô từ năm 1986 với mẫu Buick Riviera và màn hình CRT màu xanh và đen.
Tại thời điểm đó, tờ Popular Mechanics viết rằng màn hình cảm ứng đã “vi phạm Yêu cầu Đầu tiên về công thái học – bạn phải rời mắt khỏi đường sá để thực hiện bất kỳ điều chỉnh nào”. 21 năm sau, với việc Apple ra mắt mẫu iPhone đầu tiên năm 2007, cả ngành công nghiệp ôtô đã chứng kiến bước chuyển lớn sang hệ thống màn hình cảm ứng hoàn toàn.
Năm 2002: Camera lùi
Chiếc xe thử nghiệm đầu tiên với camera lùi là mẫu concept Buick Centurion 1956. Volvo cũng từng muốn hiện thực hóa ý tưởng với chiếc xe Volvo Experimental Safety Car 1972 nhưng không được đưa vào sản xuất trong một thời gian dài. Mẫu xe chính thức sở hữu trang bị này là Toyota Soarer Limited 1991 cho thị trường Nhật Bản.
Tuy nhiên, chính Infiniti mới là nhà sản xuất đầu tiên đã bổ sung camera lùi để hướng dẫn đỗ xe trên sedan Q45 2002. Nissan cũng giới thiệu mẫu Primera 2002 với công nghệ này ở các thị trường ngoài Hoa Kỳ. Ý tưởng về camera quan sát xung quanh xe cũng xuất hiện trên Infiniti EX35 2008, với 3 camera cho góc nhìn 360 độ từ trên xuống
Năm 2004: Khởi động từ xa
Công nghệ khởi động xe từ xa đã có trên xe thông qua dịch vụ hậu mãi từ lâu. Tuy nhiên, đến năm 2004, GM mới quyết định tích hợp sẵn tính năng này từ khi xuất xưởng. Trước khi khởi động, ôtô đã được thiết lập kiểm tra trước mức dầu, nhiệt độ động cơ, vị trí bướm ga, vị trí phanh và cần số và điện áp ắc quy. Nếu mọi thứ không gặp vấn đề và nắp ca-pô không mở, chiếc xe có thể khởi động từ xa bằng chìa khóa.
Năm 2006: Đỗ xe tự động
Lexus đã giới thiệu mẫu xe có khả năng tự động đỗ đầu tiên từng được sản xuất phổ thông – LS 460 2006. Để kích hoạt tính năng này, người lái phải chuyển về số lùi, bật camera lùi sau đó nhấn biểu tượng đỗ xe trên màn hình để chọn một ô đất chữ nhật đủ để đỗ. Người lái có thể thoải mái nhả tay để xe tự động di chuyển và lùi và chuồng.
Năm 2007: Theo dõi điểm mù
Vì các cột trên ôtô phải dày hơn do luật an toàn quy định nên khoảng điểm mù sẽ tăng lên khi người lái quan sát gương chiếu hậu. Do đó, Volvo đã phát triển Hệ thống Thông tin Điểm Mù của mình và đưa nó vào mẫu S80 sedan năm 2007, với việc đưa ra cảnh báo rõ ràng cho người lái khi có phương tiện bất kỳ vượt lên.
Video đang HOT
Năm 2007: Đèn pha LED
Đèn Halogen thông thường sẽ tốn nhiều năng lượng và chỉ có tuổi thọ khoảng 800 giờ sử dụng. Chính vị vậy, đèn pha LED tạo ra sự cân bằng tuyệt vời với áng sáng trăng, tiết kiệm năng lượng và tuổi thọ cao. Chúng cũng giúp các nhà sản xuất tạo nên nhiều hình thù với kích thước bóng nhỏ. Việc sử dụng đèn LED trên ôtô đã xuất hiện từ lâu khi trang bị cho đèn phanh của Chevrolet Corvette 1986. Kia sử dụng đèn báo rẽ LED cho xe của mình từ năm 2002, và Audi R8 có đèn chạy ban ngày LED năm 2007. Ngoài thị trường Mỹ, R8 có tùy chọn đèn pha LED đầu tiên, và các mẫu xe sau đó cũng dần áp dụng công nghệ chiếu sáng mới này.
Năm 2009: Kết nối với điện thoại thông minh
Vào năm 2009, Mercedes đã ra mắt lần đầu ứng dụng cho phép truy cập vào ôtô từ xa, sử dụng điện thoại thông minh của chủ xe. Nó hoạt động với iPhone và Blackberry, cho phép khóa và mở khóa cửa từ xa cũng như tìm vị trí của xe. Kể từ đó, các ứng dụng từ các nhà sản xuất đã tăng dần phạm vi truy cập bao gồm: Kiểm tra mức nhiên liệu, vị trí xe, khởi động từ xa và đặt hẹn dịch vụ.
Năm 2012: Giấy phép đầu tiên cho xe tự hành
Cuộc đua chế tạo xe tự hành xuất hiện từ những năm 2010. Chính Google đã bảo đảm giấy phép đầu tiên đưa công nghệ không người lái được thử nghiệm chính thức. Toyota Prius đã được cấp phép tại Nevada và thử nghiệm các hệ thống tự hành. Điều đã kéo theo nhiều tính năng hỗ trợ người lái như: Giữ làn, tránh va chạm và hệ thống kiểm soát hành trình chủ động. Năm 2014, Tesla đã tích hợp công nghệ Autopilot lần đầu tiên trên ôtô cho phép hệ thống điều khiển xe mà không cần người lái can thiệp.
Năm 2014: Apple CarPlay
Một vấn đề phổ biến với các hệ thống giải trí trên ôtô là chúng không vận hành tốt cùng điện thoại thông minh. Ứng dụng CarPlay của Apple đã xuất hiện trên thị trường năm 2014, và theo sau là Android Auto, đã thay đổi điều đó. Cả Apple và Google đều tích hợp cho các ứng dụng này khả năng điều khiển bằng giọng nói, dẫn đường, du lịch, âm nhạc,…
Năm 2018: Dùng điện thoại làm chìa khóa
Chía khóa thông minh đã có mặt trên ôtô trong thời gian dài. Phải mất nhiều năm sau, các nhà sản xuất ôtô mới tích hợp khả năng mở khóa bằng điện thoại thông minh, Tesla giới thiệu công nghệ này lần đầu vào năm 2018. Mẫu Model 3 có thể xác nhận được điện thoại của tài xế từ khoảng cách 90 mét để mở cửa. Đã có các lo ngại về vấn đề bảo mật và an toàn, đó là lý do giải thích tại sao các hãng xe truyền thống vẫn khá chậm chạp trong việc tích hợp công nghệ này nhưng chắc chắn đây là một lựa chọn phù hợp.
Những cuộc cách mạng công nghệ trên ôtô
Công nghệ trên ôtô hiện đại về cơ bản bắt đầu xuất hiện từ năm 1990 dù phương tiện này được phát minh từ năm 1886.
Có thể điểm qua một số mốc quan trọng như sau.
Chiếc ôtô đầu tiên được phát minh năm 1886, sau đó Henry Ford tạo nên cuộc cách mạng mới với chiếc Model T năm 1908, khiến ôtô trở thành phương tiện phổ biến hơn.
Chiếc Model T của Herry Ford. Ảnh: VOA.
Năm 1922, đề nổ bằng điện thay thế đề nổ thủ công, nhưng phải chờ tới năm 1949 Chrysler mới trang bị cơ chế này cho mẫu xe thương mại đầu tiên.
Bật lửa hút thuốc trong ôtô có từ năm 1921, sau đó là đài phát thanh năm 1930.
Khi yếu tố giải trí trong xe được quan tâm hơn, vô lăng trợ lực điện xuất hiện năm 1951. Sau đó Chrysler giới thiệu hệ thống điều hòa trong xe năm 1953, kiểm soát hành trình năm 1958.
Hệ thống điều hòa trên xe hơi có từ năm 1939 nhưng tới năm 1953 mới hoàn chỉnh.
Tiếp sau đó, dây đai an toàn 3 điểm xuất hiện trên mẫu xe Volvo năm 1959. Những năm 60 có cửa sổ điện, ghế sưởi và gạt mưa.
Phanh với cơ chế chống bó cứng ABS có từ năm 1971, bảng điều khiển số từ năm 1974, túi khí từ năm 1988 nhưng tới những năm 1990 mới chính thức được triển khai. Từ đây, các công nghệ hiện đại trên ôtô bắt đầu xuất hiện.
Năm 1990 - dẫn đường bằng vệ tinh
Năm 1990, Mazda là hãng ôtô đầu tiên cung cấp hệ thống dẫn đường GPS trên xe thương mại. Hệ thống này có mặt tại Nhật Bản đầu tiên sau đó tới Mỹ.
Hệ thống dẫn đường trên xe hơi thuở sơ khai.
Ban đầu đây là tính năng tùy chọn có giá tới 1.995 USD (năm 1995). Phải tới tận năm 2000, chính phủ Mỹ mới cung cấp tín hiệu GPS chính xác cho người dùng dân sự, khi đó hệ thống dẫn đường bằng GPS trên ôtô mới bắt đầu thông dụng.
Năm 1998 - màn hình head-up màu
Những năm 80 của thế kỷ trước, màn hình trên kính lái (HUD) xe hơi là câu chuyện khoa học viễn tưởng. Gần 2 thập kỷ sau, nó trở thành hiện thực, lần đầu tiên trên mẫu xe đua Oldsmobile Cutlass tham dự giải Indy Pace Cars.
Sau đó, tính năng này dần thông dụng khi Toyota và Nissan cung cấp hệ thống tương tự. Hiện HUD là tùy chọn trên các mẫu xe tầm trung và là trang bị tiêu chuẩn trên các mẫu xe đời cao.
Mẫu xe đầu tiên có màn hình HUD màu là Chevrolet Corvette 1998. Cadillac bắt đầu cung cấp HUD trên dòng xe XLR, trong khi BMW khởi đầu với 5-Series 2003.
Năm 1999 - kiểm soát hành trình chủ động bằng laser
Mercedes nắm trong tay danh sách dài các công nghệ xuất hiện tiên phong trên thị trường, chủ yếu dành cho dòng xe cao cấp và cận cao cấp.
Mẫu xe Mercedes đầu tiên có tính năng kiểm soát hành trình bằng radar.
Tuy nhiên, chính Mitsubishi mới là hãng đầu tiên cung cấp tính năng kiểm soát hành trình điều khiển bằng laser với hệ thống kiểm soát hành trình dựa trên lidar.
Hệ thống này sử dụng bướm ga và kiểm soát hộp số để điều chỉnh tốc độ của xe chứ không dùng phanh.
Trong khi đó, Mercedes giới thiệu hệ thống Distronic năm 1999 trên S-Class và CL. Vai trò của hệ thống này không rõ ràng, trong lúc công nghệ xe tự hành tiến triển rất chậm.
Năm 2000/2001 - Bluetooth
Các mẫu xe ngày nay không thể thiếu Bluetooth nhưng sẽ là câu chuyện khác nếu quay lại thời điểm những năm 1990.
Kết nối smartphone với ôtô qua Bluetooth.
Có vẻ Chrysler nảy ra ý tưởng trang bị Bluetooth trên ôtô nhưng Acura TL của Honda mới là mẫu xe đầu tiên tích hợp công nghệ kết nối tầm gần này tại thị trường Mỹ.
Năm 2001 - hệ thống thông tin giải trí hiện đại
Khó có thể nói hệ thống thông tin giải trí trên xe hơi thịnh hành khi nào. BMW lần đầu giới thiệu iDrive năm 2001 trên dòng xe 7 Series. Khi đó, iDrive vẫn còn thô sơ được điều khiển bằng núm xoay và rất ít nút chức năng trên bảng điều khiển.
Hệ thống thông tin giải trí đời đầu trên mẫu xe BMW.
Buick Riviera 1986 là mẫu xe đầu tiên được trang bị màn hình thông tin giải trí cảm ứng. Khi đó, tổ chức Popular Mechanics còn tố công nghệ này phạm luật.
21 năm sau, thời đại của Apple iPhone đầu tiên (2007) khơi mào cho làn sóng thịnh hành màn hình cảm ứng trên xe hơi.
Năm 2002 - camera lùi
Mẫu concept Buick Centurion 1956 đã được gắn camera lùi. 16 năm sau, Volvo mới phát triển ý tưởng này.
Camera lùi với camera 360 độ.
Tuy nhiên, mẫu xe thương mại đầu tiên tích hợp camera lùi lại là Toyota Soarer Limited 1991 tại thị trường Nhật Bản (Lexus SC tại các thị trường khác).
Kể từ năm 2018, camera lùi trở thành trang bị tiêu chuẩn trên tất cả ôtô mới tại một số quốc gia. Trong khi đó, camera 360 độ có từ năm 2008 trên mẫu xe Infiniti EX35.
Infiniti EX35 2008 sử dụng 4 camera tạo thành hình ảnh xung quanh xe. Kể từ đó, một số hãng xe bắt đầu phát triển tính năng này.
Năm 2004 - khởi động xe từ xa
Công nghệ khởi động ôtô từ xa thực tế đã có trước thời điểm 2004, chủ yếu trên các mẫu xe độ. Năm 2004, GM quyết định tích hợp công nghệ này từ nhà máy.
Trước khi khởi động, xe sẽ chạy chương trình kiểm tra áp suất dầu động cơ, nhiệt độ động cơ, vị trí van xả, vị trí cần số/phanh và điện áp ắc quy. Nếu mọi thứ đều ổn và nắp capô không mở, xe sẽ cho phép khởi động từ xa qua chìa khóa.
Tính năng này chủ yếu hữu ích tại những vùng nóng ẩm hoặc lạnh giá. Tài xế sẽ khởi động xe từ trước để khi ngồi vào ghế lái, nhiệt độ bên trong đã mát hoặc đủ ấm để di chuyển được ngay.
Năm 2006 - tự đỗ xe
Mẫu sedan LS 460 2006 là xe thương mại đầu tiên có tính năng tự đỗ xe. Để kích hoạt, người lái cần chuyển về số lùi, kích hoạt camera lùi rồi sau đó nhấn biểu tượng đỗ xe song song trên màn hình cảm ứng.
Sau đó, người lái bỏ tay khỏi vô lăng để xe tự lùi và đánh lái vào chỗ đỗ. Hiện công nghệ này đã chính xác và thông minh hơn trước.
Năm 2007 - theo dõi điểm mù
Volvo phát triển hệ thống BSIS (Blind Spot Information System) và tích hợp trên mẫu sedan S80 2007. BSIS cảnh báo tài xế khi họ chuyển làn mà có xe khác đang di chuyển bên cạnh.
Mazda sau đó trang bị hệ thống tương tự cho Mazda CX-9 2008 nhưng chỉ có trên bản Grand Touring. Năm 2013, Mazda triển khai đại trà cho nhiều dòng xe, tiếp sau đó là nhiều hãng khác.
Hệ thống theo dõi điểm mù còn được sử dụng cho hệ thống an toàn với giao thông băng cắt phía sau.
Năm 2007 - đèn pha LED
Đèn halogen ngốn nhiều năng lượng và thường chỉ có độ bền khoảng 800 giờ, trong khi đèn HID (High Intensity Discharge) lại quá đắt đỏ và phức tạp.
Rất may đèn pha LED lại cân bằng giữa hai yếu tố này, có ánh sáng trắng và sáng nhanh hơn đèn halogen, đồng thời ít tốn điện năng và có tuổi thọ bền hơn.
Audi R8 2007.
Đèn pha LED cũng dễ ghép với nhau do sử dụng các bóng cỡ nhỏ, cho phép nhà sản xuất nghĩ ra nhiều kiểu đèn sáng tạo hơn.
Thực tế, sử dụng đèn LED ngoại thất đã có từ năm 1986 trên chiếc Chevrolet Corvette, cụ thể là đèn phanh.
Sau đó Kia sử dụng đèn báo rẽ bằng LED năm 2002, tiếp đến Audi R8 2007 sử dụng đèn định vị ban ngày bằng LED.
Mercedes S-Class.
Mercedes S-Class thế hệ hiện tại là xe đầu tiên sử dụng toàn bộ đèn LED cho cả nội thất và ngoại thất.
Năm 2009 - xe kết nối smartphone
Năm 2009, lần đầu tiên Mercedes phát hành ứng dụng "mbrace" cho phép chủ xe tương tác với phương tiện từ xa thông qua smartphone.
Ứng dụng này chạy trên iPhone và Blackberry, cho phép khóa và mở khóa xe từ xa, đồng thời xác định vị trí của xe.
Kể từ đó, nhiều ứng dụng tương tự ra đời và được nâng cấp tính năng. Giờ đây, chúng có thể phân tích tình trạng xe, kiểm tra mức nhiên liệu, khởi động từ xa, thậm chí đặt lịch sử dụng các dịch vụ như nhà hàng, khách sạn.
Năm 2012 - giấy phép đầu tiên cho xe tự hành
Cuộc đua phát triển xe tự hành thương mại đầu tiên có từ năm 2010. Khi đó Google được cấp phép thử nghiệm công nghệ xe không người lái.
Sau đó chiếc Toyota Prius được cấp phép thử nghiệm tại bang Nevada (Mỹ), mở đường cho chạy thử nhiều phương tiện tự hành khác.
Cùng xe tự hành, các tính năng như giữ làn, tránh va chạm, kiểm soát hành trình thích ứng nâng cao tiếp tục được phát triển và nâng cấp.
Năm 2014, Tesla cập nhật thêm tính năng tự lái Autopilot cho xe điện của hãng. Autopilot tự đánh lái và thay đổi làn dựa trên dữ liệu thu thập từ cảm biến của xe.
Năm 2014 - Apple CarPlay và Android Auto
Vấn đề với hệ thống thông tin giải trí mà nhiều hãng xe gặp phải là chúng không được thiết kế tốt và phải dựa vào phần cứng của smartphone.
Appe CarPlay.
Năm 2014, Apple giới thiệu CarPlay và cùng với Android Auto ra mắt sau đó, cuộc chơi đã thay đổi.
Cả Apple và Google đều dẫn đầu với công nghệ dẫn đường và điều khiển bằng giọng nói. Hệ thống sử dụng các ứng dụng âm nhạc và du lịch thông dụng, gắn cuộc sống hàng ngày với chiếc xe, đảm bảo nâng cấp dễ dàng như smartphone.
Android Auto.
Giờ đây, tất cả những gì bạn cần là kết nối smartphone với ôtô và ngay lập tức chúng biến thành hệ thống thông tin giải trí tiện dụng.
Năm 2018 - smartphone là chìa khóa ôtô
Mở cửa ôtô không cần chìa đã có từ khá lâu. Hệ thống SecuriCode của Ford có từ năm 1980 và được gọi với cái tên thông dụng hơn là Keyless Entry System.
Trong mảng này, Tesla lại là cái tên tiên phong. Năm 2018, hãng xe Mỹ giới thiệu với khách hàng giải pháp sử dụng smartphone thay thế chìa khóa ôtô.
Chiếc Model 3 có thể cảm nhận được smartphone của chủ xe từ khoảng cách 9 m và tự động mở cửa xe.
Tuy nhiên, có những lo ngại về an ninh và an toàn khiến cho nhiều hãng xe không mặn mà với công nghệ này.
Phiên bản cao cấp nhất của Mazda6 2020 được nâng cấp những gì? Ngoài những thay đổi nhẹ về ngoại thất và nội thất, Mazda6 2020 tiếp tục là mẫu xe được trang bị nhiều tính năng an toàn nhất phân khúc D. Thế hệ mới của Mazda6 vừa mới được ra mắt vào ngày 8/6 Thaco - Trường Hải vừa chính thức giới thiệu mẫu xe New Mazda6 trên toàn quốc với thiết kế hoàn...