Quá trình chiếm hữu và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa
Ban biên tập xin giới thiệu với quý bạn đọc bài viết của Gs -Ts Hồ Sĩ Quý (Viện hàn lâm KHXHVN) bài viết “Quá trình chiếm hữu và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa – Thực tế, không gián đoạn, hòa bình và minh bạch”
I. Ít nhất, từ thế kỷ XVII, Hoàng Sa không phải là lãnh thổ vô chủ (Terra Nullius)
Sử sách Trung Hoa suốt từ các đời Tần, Hán đến tận sau Thế chiến thứ II, không có tài liệu nào xác nhận, Biển Đông với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc (Biển Đông được người Trung Quốc và giới hàng hải gọi làÈ13;Õ35; Trung Quốc Nam Hải, Õ35;Hoa Nam, South China Sea, người Philippines từ 2012 gọi là biển Tây Philippines, West Philippine Sea; quần đảo Hoàng Sa được người Trung Quốc gọi làTây Sa, tiếng Anh: Paracels và Trường Sa người Trung Quốc được gọi là Õ35; Nam Sa, tiếng Anh: Spratlys). Trong khi đó, không ít thư tịch cổ Trung Hoa, do chính người Trung Hoa viết lại đã thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam[1].
Phía Trung Quốc thường tuyên truyền chủ quyền của họ đối với Biển Đông có từ hơn 2000 năm trước. Nhưng những chứng cứ chủ yếu lại chỉ là những ghi chép của người đương thời và người đời sau về các con đường hàng hải từ Trung Quốc ra nước ngoài, các hoạt động thám hiểm, buôn bán, đánh cá… và qua đó có ghi chép về địa lý, lịch sử, phong tục… ở các vùng mà những người chứng kiến đã đi qua. Cũng có tài liệu nói người đánh cá Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam và các nước khác khi buôn bán, đánh cá hoặc gặp thiên tai trên biển… đã từng sống trên các đảo tuỳ theo mùa vụ, nhưng cụ thể từ khi nào và mùa vụ là bao nhiêu lâu thì chưa thấy tài liệu nào ghi chép thật rõ[2], và chỉ riêng điều đó thì cũng không có ý nghĩa về mặt chủ quyền.
Ở đây các nhà nghiên cứu đôi khi thường bắt gặp có sự nhầm lẫn hoặc cố tình nhầm lẫn của những người làm sử thiếu khách quan. Theo luật pháp quốc tế, việc thực thi chủ quyền và quyền chủ quyền trên các vùng biển đảo, ngày nay, không phụ thuộc vào việc phát hiện, thám hiểm hay thực thi buôn bán, làm ăn trên biển. Cũng không phụ thuộc vào sự hiểu biết của người quan sát về biển đảo. Từ thế kỷ thứ VIII, người Bắc Âu, Hà Lan, Tây Ban Nha, Anh… đã có tiếng là những Viking[3] gồm những nhà thám hiểm, nhà buôn, chiến binh, và cả những hải tặc đã tung hoành trên nhiều vùng biển của địa cầu. Những ghi chép của người Anglo-Saxon về hải dương từ lâu đã là nguồn tra cứu phong phú và quý giá của nhân loại. Tiếp theo là những người Ấn Độ, Trung Quốc, Philippines, Việt Nam… cũng có mặt ở nhiều vùng trên Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Phương Đông không có các Viking, ít các nhà thám hiểm nên người phương Đông có mặt trên biển chủ yếu là buôn bán, làm ăn, đánh cá…
Gs -Ts Hồ Sĩ Quý.
Gần đây, phía Trung Quốc còn đưa thêm nhà thám hiểm người Hồi là Trịnh Hòa vào hồ sơ tranh chấp biển đảo. Nhưng thực ra Trịnh Hòa chỉ đi ngang qua Biển Đông và các ghi chép về 7 chuyến đi của ông cũng không thấy nói gì đến Hoàng Sa, Trường Sa: Từ năm 1405-1433, Minh Thành Tổ cử Đô đốc Thái giám Trịnh Hòa chỉ huy đoàn thám hiểm “hạ Tây dương” 7 lần đến Ấn Độ Dương và Biển Ả Rập nhằm thiết lập bang giao với trên 30 quốc gia duyên hải, triển khai Con đường Tơ lụa trên biển tại Ấn Độ, Phi Châu và Trung Đông. Những chuyến hải hành của Trịnh Hòa trên thực tế không hề dừng ở Biển Đông. Trạm trú chân duy nhất của đoàn trong khu vực này là Đồ Bàn (Chaban) thủ phủ Chiêm Thành bấy giờ. Sau khi Minh Thành Tổ mất, triều Minh đã phê phán những cuộc hải trình này chỉ là phô diễn và làm suy yếu kinh tế quốc gia.
Trên thực tế, từ nhiều thế kỷ nay, nguyên tắc “quyền phát hiện” và nguyên tắc “chủ quyền lịch sử” đã không còn phù hợp và đã bị thay thế. Nghĩa là, nếu giả sử luật pháp quốc tế vẫn còn căn cứ vào luận thuyết chủ quyền lịch sử hay sự phát hiện biển đảo để xác định chủ quyền thì quyền chiếm hữu và sở hữu các châu lục ngày nay hầu hết đã thuộc về các Viking, các nhà thám hiểm hoặc các tay cướp biển Tây Âu.
Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được các triều đại phong kiến Việt Nam thực thi từ rất sớm. Có tài liệu nói từ thế kỷ XV. Nhưng rõ nhất là từ đầu thế kỷ XVII đến tận năm 1932, khi Pháp chính thức tuyên bố kế thừa và tiếp tục chủ quyền tại hai quần đảo này, các triều đại phong kiến Việt Nam đều đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền thực tế đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Quá trình này diễn ra một cách liên tục, với những hoạt động kinh tế – xã hội rất hòa bình và lúc đó cũng chưa hề có tranh chấp[4]. Về mặt pháp lý, ít nhất từ thế kỷ XVII, Hoàng Sa đã không còn là lãnh thổ vô chủ nữa (Terra Nullius).
Bản đồ Hoàng Sa
Năm 1698, Hoàng Sa trở nên nổi tiếng trong các biên niên sử hàng hải với vụ đắm tàu Amphitrite dưới thời vua Louis XIV khi đi từ Pháp sang Trung Quốc.
Năm 1753, 10 người lính của Đội Bắc Hải đã có mặt ở quần đảo Hoàng Sa. 8 người lên đảo, còn 2 người ở lại canh thuyền. Một cơn bão ập tới và thuyền bị trôi dạt đến tận cảng Thanh Lan của Trung Quốc. Chính quyền Trung Hoa lúc đó cho điều tra, và khi biết các sự kiện, đã trả 2 người lính về Việt Nam. Lê Quý Đôn viết: “Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan chính đường huyện Văn Xương Quỳnh Châu gửi cho Thuận Hóa nói rằng, năm Càn Long thứ 18 (1753), có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh tổng Cát Liềm huyện Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam, một ngày tháng 7 đến Trường Sa tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để 2 tên giữ thuyền, bị gió đứt dây thuyền, giạt vào Thanh Lan cảng, quan ở đấy xét thực, đưa trả về nguyên quán…”[5]. Sự kiện này cũng là một dấu hiệu về việc người Trung Quốc không coi Hoàng Sa là của mình.
Năm 1816, vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo Hoàng Sa, ra lệnh cắm cờ trên đảo và đo thuỷ trình. Khâm sứ Pháp tại Đông Dương Jules Brevie đã ra lệnh thành lập cơ quan hành chính quản lý quần đảo Hoàng Sa và cho dựng trên quần đảo một tấm bia có dòng chữ “Cộng hòa Pháp – Vương quốc An Nam – quần đảo Hoàng Sa, 1816″[6].
Năm 1835, vua Minh Mạng cho xây đền, đặt bia đá, đóng cọc và trồng cây. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải được trao nhiệm vụ khai thác, tuần tiễu, thu thuế trên đảo, và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ hai quần đảo. Hai đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi người Pháp vào Đông Dương. Từ đó đến năm 1847-1848, việc quản lý hành chính các đảo này được triều Nguyễn duy trì nhằm giúp đỡ các cuộc hải trình và cũng để thu thuế ngư dân trong vùng[7].
II. Nước Pháp công nhận việc thực thi chủ quyền của các triều đại phong kiến Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và chịu trách nhiệm kế thừa
Năm 1884, Hiệp ước Huế áp đặt chế độ thuộc địa. Ngày 9/6/1885: Hiệp ước Pháp – Thanh tại Thiên Tân chấm dứt xung đột giữa Pháp Thanh; Việt Nam vĩnh viễn thoát khỏi chế độ phên thuộc. Ngày 26/6/1887, Hiệp ước Pháp – Thanh ấn định biên giới giữa Việt Nam và Trung Hoa. Nghĩa là từ đây, mọi tuyên bố hay hành vi của Pháp về Hoàng Sa, Trường Sa, được hiểu là và trên thực tế là, đại diện cho Việt Nam, của Việt Nam.
Năm 1895 con tàu La Bellona và năm 1896 con tàu Imeji Maru bị đắm gần Hoàng Sa. Những người đánh cá ở Hải Nam đến thu lượm đồng từ hai chiếc tàu đắm này. Các công ty bảo hiểm của hai con tàu này phản đối chính quyền Trung Hoa. Chính quyền Trung Hoa trả lời là không chịu trách nhiệm, lấy lý do là Hoàng Sa không phải là lãnh thổ của Trung Hoa, cũng không phải là lãnh thổ Việt Nam.
Năm 1899, Toàn quyền Paul Doumer đề nghị chính phủ Pháp xây ngọn hải đăng nhưng việc này không thành vì lý do tài chính.
Vào năm 1909, Tổng đốc Lưỡng Quảng ra lệnh cho đô đốc Lý Chuẩn đổ bộ lên quần đảo Hoàng Sa. Cuộc đổ bộ khoảng không quá 24 giờ. Họ kéo cờ và bắn súng để biểu thị chủ quyền của Trung Quốc. Sự kiện này không gây ra phản ứng gì của các nước, kể cả nước Pháp đại diện cho An Nam vì cho rằng đó chỉ là một nghi thức hải quân nhân chuyến thám sát đảo xa. Sự kiện này cũng làm lộ ra mâu thuẫn trong lập luận của Trung Quốc. Nếu quần đảo Hoàng Sa đã được Trung Quốc chiếm cứ thực sự từ lâu, thì tại sao Lý Chuẩn lại không biết điều này và hành xử với tư cách là người lần đầu tiên phát hiện ra quần đảo.
Hoàng Sa
Năm 1920, một công ty Nhật Bản là Mitsui Busan Kaisha xin phép Pháp khai thác quần đảo Hoàng Sa, Pháp từ chối. Cũng bắt đầu năm 1920, Pháp kiểm soát quan thuế và tuần tiễu trên đảo.
Ngày 8/3/1921, Toàn quyền Đông Dương tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Pháp. Nhưng ngày 30/3/1921, Tổng đốc Lưỡng Quảng tuyên bố sát nhập Hoàng Sa với Hải Nam, Pháp lại không phản đối. Ngay sau đó các nhà nghiên cứu và hoạt động xã hội người Pháp ở Hà Nội đã chỉ trích Toàn quyền Đông dương về thái độ này. Công đầu trong việc này là tờ tuần báo “Thức tỉnh kinh tế Đông Dương” (L’Éveil Économique de l’Indochine).
Tuần báo L’Éveil Économique de l’Indochine ra số đầu tiên vào thứ bảy, ngày 16/6/1917 và số cuối cùng vào năm 1934. Người sáng lập, là Chủ bút và cũng là tác giả của nhiều bài viết trong tuần báo này là Henri Cucheroussset (1879 – 1934, ông qua đời tại Hà Nội và cũng là người đặc biệt yêu mến Hoàng Sa, chiến đấu không mệt mỏi cho chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa). Trong 835 số tuần báo, Chính phủ Pháp và An Nam đã triệt để giải quyết tranh chấp Hoàng Sa với chính quyền Quảng Đông (lúc đó ly khai khỏi Trung Quốc và cũng không được Trung Quốc và các nước khác thừa nhận). Ông Henri Cucheroussset đã đưa vấn đề ra Thượng viện và Hạ viện Pháp, vì lý do Toàn quyền Đông dương ở Hà Nội không đủ nỗ lực quan tâm đến vấn đề. Trên tờ tạp chí này, các sự kiện sau đây đã được phản ánh:
- Các đề nghị đối với chính quyền bảo hộ: Đặt trạm hải đăng, trạm khí tượng, trạm phát sóng cực ngắn, các phao đèn và cọc tiêu, vẽ các bản đồ quần đảo Hoàng Sa: tỷ lệ 1:200.000, & 1 :25.000; Xây dựng cảng cá và tổ chức nơi trú ẩn cho ngư dân, phát triển công nghiệp cá, phát triển các tầu đánh cá có thể đánh bắt xa bờ từ 2 đến 300 km; Thiết lập hệ thống hành chính trên hai quần đảo và cần thiết có quân đội thường trú bảo vệ và tuần tra khu vực[8].
- Trách nhiệm của nước Pháp và các quan chức Pháp tại Đông Dương: Tác giả trách cứ một số quan chức Đông Dương vô trách nhiệm đối với chủ quyền quần đảo Hoàng Sa như Ông Monguillot (Thống sứ Bắc Kỳ, có lúc được cử làm quyền Toàn quyền Đông Dương), Trung tá Rémy hạm trưởng Hải quân Pháp tại Sài Gòn và đặc biệt là ông Toàn quyền Pière Pasquier. Và nhờ đó, các chính khách đã quan tâm đến vấn đề quần đảo Hoàng Sa như Thượng nghị sĩ Albert Sarraut, Nghị sĩ Ernest Outrey, Thượng nghị sĩ Bergeon … và đề nghị tổ chức một hội nghị về quần đảo này tại Luxembourg (Thượng nghị viện Pháp) và lâu đài Bourbon (Hạ nghị viện Pháp).
- Vỉa phốt phát có diện tích khoảng 4 triệu m2 có độ dầy trung bình 2m, tức 8 triệu m3 và với có thể thu được 2 tấn / m3 phốt phát tức 16 triệu tấn phốt phát ở Hoàng Sa. Tuy nhiên, chính quyền quản lý lơ là để Nhật Bản và Trung Quốc khai thác bất hợp pháp, không mang lại đồng nào cho Annam.
- Bằng con tàu Malicieuse, ngày 13/4/1930, nước Pháp đã chính thức đặt chủ quyền của An Nam dưới sự bảo hộ của Pháp đối với quần đảo Trường Sa[9].
Video đang HOT
- Chính quyền Pháp và An Nam đã dựng bia chủ quyền cho quần đảo Hoàng Sa trên đảo Pattle (đảo Hoàng Sa) với dòng chữ: République franaise – Royaume d’Annam – Archipel des Paracels 1816 – le Pattle – 1938 (Cộng hòa Pháp – Vương quốc An Nam – Quần đảo Paracels 1816 – đảo Pattle 1938). Chính quyền Pháp đã lần lượt đặt hai trạm khí tượng trên đảo Boisée (Phú Lâm) và trên đảo Pattle (Hoàng Sa). Trước đó, vào năm 1933, Quần đảo Trường Sa đã được sáp nhập với tỉnh Bà Rịa.
Hoàng Sa
Bắt đầu từ năm 1925, Viện Hải dương học Nha Trang tiến hành những thí nghiệm khoa học trên đảo Hoàng Sa do tiến sĩ Krempt tổ chức.
Năm 1927, Tàu De Lanessan viếng thăm quần đảo Trường Sa.
Năm 1930: Ba tàu Pháp La Malicieuse, L’Alerte và L’Astrobale chiếm quần đảo Trường Sa và cắm cờ Pháp và tuyên bố thực thi chủ quyền trên quần đảo này.
Năm 1931, Trung Hoa ra lệnh khai thác phân chim tại quần đảo Hoàng Sa, ban quyền khai thác cho Công ty Anglo-Chinese Development. Pháp phản đối.
Năm 1932, Pháp chính thức tuyên bố An Nam có chủ quyền lịch sử trên quần đảo Hoàng Sa, sát nhập quần đảo Hoàng Sa với tỉnh Thừa Thiên. Nghĩa là Pháp công nhận và chịu trách nhiệm kế thừa chủ quyền của Việt Nam từ trước đó, tiếp tục thực thi chủ quyền tại hai quần đảo này.
Năm 1933, Quần đảo Trường Sa được sáp nhập với tỉnh Bà Rịa. Pháp cũng đề nghị với Trung Hoa đưa vấn đề ra Toà án Quốc tế nhưng Trung Hoa từ chối.
Các quyền của VN đối với Hoàng Sa
III. Việt Nam “xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa” trước cộng đồng quốc tế tại San Francisco 1951
Năm 1937, bất chấp sự phản đối của Pháp, Nhật chiếm các đảo “nằm ngoài khơi Đông Dương”, đổi tên thành Shinnan Gunto (Tân Nam Quần Đảo) và đặt dưới quyền tài phán của Cao Hùng (Đài Loan). Trong suốt thời gian Thế chiến II, các quần đảo bị Nhật chiếm đóng.
Năm 1938, Pháp cho đặt bia đá, xây hải đăng, đài khí tượng và đưa đội biên phòng người Việt ra để bảo vệ đảo Pattle (đảo Hoàng Sa) của quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1945, Nhật Bản thua trận rút khỏi Đông Dương. Pháp khôi phục lại sự có mặt của mình tại Hoàng Sa vào tháng 6/1946. Pháp trở lại đảo An Vĩnh, nhưng phải rút vì lý do chi viện cho chiến cuộc đang căng thẳng ở Bắc Việt Nam.
Suốt chiều dài lịch sử cho đến tận năm 1945, ngoài nỗ lực thị uy của chính quyền Quảng Đông năm 1909, Trung Quốc không hề có sự chiếm cứ thực sự, liên tục hay sự quản lý hành chính thực tế nào trên các đảo ở biển Đông.
Chào cờ ở Hoàng Sa
Cuối năm 1946, Trung Hoa Dân Quốc đưa quân chiếm đóng đảo Ba Bình (quần đảo Trường Sa), sau khi Pháp đặt bia chủ quyền ở đó.
Tháng 1/1947, Trung Quốc (lúc đó là quân của Tưởng Giới Thạch) đổ bộ lên đảo Woody (Phú Lâm) của quần đảo Hoàng Sa. Pháp lập tức phản đối việc chiếm hữu trái phép này của Trung Quốc và cử một phân đội ra quần đảo Hoàng Sa, lập đồn binh và xây trạm khí tượng. Các trạm khí tượng này hoạt động trong suốt 26 năm với những nhân viên Việt Nam cần mẫn cho đến khi Trung Hoa đại lục cưỡng chiếm bằng quân sự vào năm 1974. Ngày nay thông tin về khí tượng thủy văn phát đi từ Hoàng Sa vẫn được toàn thế giới biết đến với danh nghĩa một trạm khí tượng của một hòn đảo nhiệt đới Việt Nam. Hai bên đàm phán tại Paris. Cũng năm 1947, Pháp đề nghị đưa vấn đề tranh chấp ra Trọng tài quốc tế nhưng Trung Hoa từ chối. Năm 1950, sau khi chính phủ phải chạy ra đảo Đài Loan, quân của Tưởng Giới Thạch rút khỏi đảo Phú Lâm.
Tháng 10/1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời. Tháng 5/1950, Quân đội Quốc dân Đảng phải rời khỏi các đảo Phú Lâm (quần đảo Hoàng Sa) và Ba Bình (quần đảo Trường Sa). Các trại đồn trú của Pháp vẫn được tiếp tục duy trì ở Hoàng Sa. Ngày 14/10/1950, Chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho Chính phủ Bảo Đại quyền quản lý quần đảo này. Thủ hiến Trung phần Việt Nam lúc bấy giờ là Phan Văn Giáo đã chủ tọa việc chuyển giao quyền hành quản lý quần đảo Hoàng Sa. Thời điểm này diễn ra một sự kiện quan trọng, đó là hội nghị được tổ chức tại San Francisco, California (Mỹ) giữa lực lượng Đồng minh và Nhật Bản.
Hội nghị San Fransisco diễn ra từ ngày 5/9 đến 8/9/1951, có phái đoàn của 51 quốc gia tham dự để thảo luận về vấn đề chấm dứt chiến tranh tại châu Á – Thái Bình Dương và mở ra quan hệ với Nhật Bản thời hậu chiến. Trong hội nghị này, Trung Hoa Đại lục và Trung Hoa Dân quốc không được mời tham dự do giữa Mỹ và Liên Xô không thống nhất được ai là người đại diện chính thức cho quyền lợi của Trung Hoa.
Ngày 5/9/1951, Ngoại trưởng Liên Xô Gromyko đã đề nghị 13 khoản tu chính. Trong đó, có khoản tu chính liên quan đến việc Nhật Bản nhìn nhận chủ quyền của Trung Hoa đại lục đối với đảo Hoàng Sa. Hội nghị bác bỏ với 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận. Danh nghĩa chủ quyền Trung Quốc đối với các quần đảo ngoài khơi Biển Đông đã bị cộng đồng quốc tế bác bỏ rõ ràng trong khuôn khổ của một hội nghị quốc tế.
Ngày 7/9/1951, cũng tại hội nghị, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu của Chính phủ Bảo Đại đã long trọng tuyên bố, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam: “Cần phải thành thật lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt các mầm mốmg tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”[10]. Kết thúc hội nghị là việc ký kết Hòa ước với Nhật ngày 8/9/1951. Trong hòa ước này, ở Điều 2, đoạn 7, ghi rõ: “Nhật Bản khước từ mọi chủ quyền và đòi hỏi đối với tất cả các lãnh thổ mà họ chiếm bằng vũ lực trong đệ nhị thế chiến, trong số đó có các đảo Trường Sa và Hoàng Sa”. 50 phái đoàn yên lặng nghe lời tuyên bố của phái đoàn Việt Nam, không quốc gia nào phản đối[11]. Trung Quốc đại lục sau đó đã phản ứng bằng cách tuyên bố bảo lưu yêu sách của họ đối với các quần đảo qua tuyên bố của bộ trưởng ngoại giao Chu Ân Lai ngày 15/8/1951. Nhưng chính quyền Tưởng Giới Thạch thì không phản ứng gì. Lúc đó, đa số các nước vẫn công nhận chính phủ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch là đại diện chính thức cho Trung Quốc.
Sau Hội nghị San Francisco, 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vẫn do chính quyền Bảo Đại quản lý. Đến năm 1954, 2 quần đảo này được đặt dưới sự quản lý của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Tháng 4/1956, quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, đội tuần tra của Pháp trên đảo Hoàng Sa được thay thế bởi đội tuần tra của chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Nhưng khi đó chính quyền Trung Quốc đại lục đã bí mật cho quân đổ bộ chiếm phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa (cụm An Vĩnh, tiếng Anh: Amphitrite Group, tiếng Hoa: ê59;õ03;í07;, Tuyên Đức quần đảo). Trong khi phía Tây, nhóm Lưỡi Liềm, còn gọi là Nguyệt Thiềm (tiếng Anh: Crescent Group, tiếng Hoa: È48;í07;, Vĩnh Lạc quần đảo) vẫn do quân đội Việt Nam đóng trên đảo Pattle nắm giữ. Ngày 1/6/1956, ngoại trưởng Việt Nam Cộng hoà Vũ Văn Mẫu xác nhận lại chủ quyền của Việt Nam trên cả hai quần đảo. Ngày 22/8/1956, Một đơn vị hải quân của Việt Nam Cộng hoà cắm cờ trên quần đảo Trường Sa và dựng bia đá.
IV. Việc Trung Quốc sử dụng vũ lực cưỡng chiếm toàn bộ Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa là trắng trợn vi phạm tuyên ngôn 1970 của Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc
Ngày 4/9/1958, Trung Quốc ra tuyên bố về hải phận 12 hải lý, áp dụng cho cả các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Năm 1961, quần đảo Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của tỉnh Quảng Nam. Năm 1973, thuộc tỉnh Phước Tuy.
Tháng 1/1974, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm các đảo do quân đội Việt Nam Cộng hoà đóng, 75 sĩ quan và binh sĩ Sài Gòn hy sinh, Trung Quốc chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Nghĩa là kể từ 1974, trong vấn đề chủ quyền Hoàng Sa, Việt Nam đã bị tước mất yếu tố vật chất (Corpus), nhưng chủ quyền của Việt Nam vẫn không bị gián đoạn do được đảm bảo bằng yếu tố tinh thần (Animus). Tháng 12/1982, huyện Hoàng Sa trực thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng được thành lập. Nhưng điều quan trọng hơn, theo luật quốc tế, từ đầu thế kỷ XX việc dùng vũ lực để chinh phục một lãnh thổ đã bị lên án và không được chấp nhận. Nghị quyết của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc ngày 24/10/1970 ghi rõ: “Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm đóng quân sự, kết quả của việc sử dụng vũ lực trái với các điều khoản của Hiến chương Liên hợp quốc. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là một đối tượng thụ đắc bởi một quốc gia khác do đe doạ sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lưc. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào bằng sự đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực đều là bất hợp pháp” [12]. Do đó, các hành động dùng vũ lực trái ngược với luật quốc tế của Trung Quốc không thể mang lại danh nghĩa pháp lý cho nước này đối với quần đảo Hoàng Sa.
Đối với quần đảo Trường Sa, theo Jan Rowiski, cho đến thời điểm tháng 1/1974 “Trung Quốc không có khả năng gây ảnh hưởng đối với khu vực quần đảo Trường Sa, chứ chưa nói gì đến chuyện kiểm soát nó”[13]. Tháng 2.1988, Trung Quốc đưa quân đội đến chiếm một số đảo trên quần đảo Trường Sa.
Năm 1975, Việt Nam thống nhất, quân đội Nhân dân Việt Nam thay thế quân đội Việt Nam Cộng hoà tại quần đảo Trường Sa. Năm 1977, Việt Nam ra tuyên bố lãnh hải đất nước, kể cả lãnh hải của các đảo. Trong thời gian này, nhiều quốc gia khác cũng đã chiếm một số đảo của quần đảo Trường Sa.
Tháng 3/1988, lần đầu tiên Trung Quốc có mặt trên quần đảo Trường Sa bằng cách đưa quân tới xâm lược bãi đá Cô Lin, Len Đao và Gạc Ma, do ba bãi đá này không có quân đội đồn trú nên Hải quân Việt Nam phải đưa quân ra bảo vệ. Ngày 11/3/1988, tàu HQ 604 (Lữ đoàn 125) của thuyền trưởng Vũ Phi Trừ xuất phát từ Cam Ranh với 70 bộ đội công binh của Trung đoàn 83 và 22 bộ đội của Lữ đoàn 146 ra xây dựng cụm đảo Gạc Ma. Khi đang chuyển vật liệu lên đảo thì ba tàu chiến Trung Quốc áp sát, giật cờ, nã súng xâm chiếm đảo Gạc Ma trái phép. Sau đó, tàu Trung Quốc tiếp tục tấn công tàu HQ 605 đang bảo vệ và xây dựng đảo Len Đao và tàu HQ 505 canh giữ Cô Lin. Trận xung đột đã làm hai tàu của Việt Nam bị chìm, một tàu hỏng, 64 sĩ quan và chiến sĩ hy sinh, 9 người bị phía Trung Quốc bắt làm tù binh. Trung Quốc còn chặn không cho tàu mang cờ Chữ Thập Đỏ ra cứu hộ. Trung Quốc bị hư hại tàu chiến, thương vong 24 thủy binh. Kể từ đó Trung Quốc chiếm đóng Gạc Ma.
Tháng 4/1988, Trung Quốc thành lập tỉnh thứ 33 bao gồm đảo Hải Nam và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tháng 5/1989, Trung Quốc chiếm thêm một đảo nhỏ trên quần đảo Trường Sa.
Năm 1990, Trung Quốc đề nghị khai thác chung quần đảo Trường Sa.
Năm 1992, Trung Quốc chiếm thêm một số đảo nữa.
Năm 1994, Đụng độ giữa Việt Nam và một chiếc tàu Trung Quốc nghiên cứu cho Công ty Crestone.
Tháng 2/1995, Trung Quốc chiếm đá Vành Khăn, một đảo đá nhỏ do Philippines quản lý trên quần đảo Trường Sa.
Hiện nay Trung Quốc kiểm soát toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Còn quần đảo Trường Sa thì do sáu quốc gia và vùng lãnh thổ chiếm giữ là Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia và Brunei.
***
Những sự kiện vừa dẫn ra ở trên cho thấy ý đồ và bước đi của nhà cầm quyền Trung Quốc trong nhiều thế kỷ qua đã diễn ra theo một logic đáng ngại cho hòa bình và công pháp quốc tế. Nhưng không dừng ở đó, tháng 5/2014, Trung Quốc đã đưa giàn khoan khổng lồ Haiyang Shiyou 981 cùng với hàng chục máy bay chiến đấu, hàng trăm tàu bán quân sự và quân sự vào thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Thực chất đây là một cuộc xâm lăng với tất cả các dấu hiệu vừa “cổ điển” vừa chưa có tiền lệ của nó. Cổ điển vì đã vượt biên giới, có vũ khí, hành động đơn phương với mưu đồ cưỡng chiếm lãnh thổ và thôn tính dài lâu. Nhưng lại chưa có tiền lệ vì sử dụng “lãnh thổ di động”, chưa nổ súng và có thể không nổ súng nhưng vẫn có khả năng biến lãnh thổ quốc gia khác thành vùng tranh chấp rồi mới cưỡng đoạt. Giấc mộng Trung Hoa trên thực tế đã dần trút bỏ “lá nho che đậy không kém phần trơ trẽn” của nó[14].
“Những gì mà Trung Quốc đang làm khác rất xa những gì mà Trung Quốc nói”, đây là nhận định của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại cuộc họp báo ngày 22/5/2014 tại Manila, nhân chuyến viếng thăm cấp quốc gia của Ông tại Philippines. Tại cuộc họp báo này, người đứng đầu Chính phủ Việt Nam đã nói rõ: “Chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển. Nhất định Việt Nam không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó”[15].
Điều Thủ tướng nói chính là điều thuộc về ý nguyện của nhân dân. [16].
* GS.TS., Viện Thông tin Khoa học xã hội.
[1]. Xem: Lưu Văn Lợi (1995). Cuộc tranh chấp Việt-Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nxb. Công an nhân dân. // Trần Xuân Hiến (2014). Tư liệu Hoàng Sa Trường Sa trong thư tịch cổ Trung Quốc (TL Viện Thông tin KHXH). // Thư tịch cổ Trung Hoa thừa nhận Hoàng Sa Trường Sa thuộc Việt Nam. http://www.biendong.net/hoang-sa-truong-sa/372-th-tch-trung-hoa-tha-nhn-hoang-sa-trng-sa-thuc-vit-nam.html.
Về tên gọi Hoàng Sa: Năm 1838 nhà truyền giáo người Pháp Joan-Luis-Taberu đã xuất bản cuốn “Dictionarium Latino-Annamiticum completum et novo ordine dispositum (“Từ điển Việt-Latin”). Trong đó quần đảo Hoàng Sa được định nghĩa là “Paracel seu Cát vàng”. Tiếp sau đó, nhà địa lý Hà Lan Villem Blau chính thức đặt tên cho đảo này bằng tiếng châu Âu là “Pracel”. Về sau do sự mai một của thời gian và các nhà đi biển người Pháp truyền khẩu không chính xác nên “Pracel” đã bị gọi chệch đi thành “Le Paracel.” (Xem: . .ru 1/6/2014. http://www.gazeta.ru/science/2014/06/01_a_6054413.shtml.).
[2]. Xem: Keith Johnson (2014). Lord of the Sea, Foreign Policy, 2014, May 16. http://www.foreignpolicy.com/articles/2014/05/16/lord_of_the_sea // Phạm Hoàng Quân (2013). Về địa danh và vị trí vạn lý trường sa, vạn lý thạch đường trên địa đồ hàng hải thời Minh ở Thư viện Đại học Oxford. http://boxitvn.blogspot.com/2013/01/ve-ia-danh-va-vi-tri-van-ly-truong-sa.html // Phạm Hoàng Quân (2013). Phân tích tổng quan nguồn sử liệu Trung Hoa liên quan đến biển Đông Việt Nam. http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&News=6363&CategoryID=42.
[3]. Viking: thuật ngữ chỉ những nhà thám hiểm tài ba, phiêu lưu trên biển.
[4]. Nhiều tài liệu đã mô tả kỹ quá trình này. Mới đây, TS. Trần Công Trục một lần nữa mô tả chi tiết lịch sử chiếm hữu và khẳng định, Nhà nước phong kiến Việt Nam suốt từ thời chúa Nguyễn, qua thời Tây Sơn đến thời các triều Nguyễn, với 3 triều đại khác nhau, đều đã thực hiện sứ mệnh thiêng liêng với tư cách Nhà nước Đại Việt, tiến hành chiếm hữu và thực thi chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Xem: Trần Công Trục (2014). Hoàng Sa, Trường Sa chưa từng thuộc về Trung Quốc. http://dantri.com.vn/chinh-tri/ky-2-chu-quyen-lich-su-khong-phai-de-chung-minh-chu-quyen-881793.htm
Về điều này, sách trắng của Việt Nam công bố 1988 “Các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và luật pháp quốc tế” cũng đã dẫn các nguồn tài liệu có giá trị như Đại Nam thực lục tiền biên (1600-1775), Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (1630-1653), Phủ biên tạp lục (1776), Đại Nam thực lục chính biên (1848), Đại Nam Nhất Thống Chí (bộ sách địa lý lịch sử chung của Đại Nam 1865-1882), Lịch triều hiến chương loại chí (1821), Hoàng Việt địa dư chí (1833), Việt sử cương giám khảo lược (1876), các châu bản triều Nguyễn về các bản tấu, phúc tấu, các dụ của các vua, và hàng loạt bản đồ, tài liệu… của nước ngoài.
[5]. Trích theo: Thái Văn (2014). Hoàng Sa, chủ quyền Việt Nam không thể tranh cãi. (Trường Sa ở đây là một hòn đảo thuộc Hoàng Sa). http://www.phununet.com/tin-tuc/hoang-sa-chu-quyen-viet-nam-khong-the-tranh-cai-ky-1/5c-3404sc-660324n.html.
[6]. . .ru 1/6/2014.http://www.gazeta.ru/science/2014/06/01_a_6054413.shtml.
[7]. Xem: Lưu Văn Lợi (1995). Cuộc tranh chấp Việt-Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nxb. Công an nhân dân.
[8]. L’Éveil économique de l’Indochine số 394, 398, 491, 602, 627, 644 …
[9]. L’Éveil économique de l’Indochine. 4/5/1930. – No 672, tr. 18…
[10]. Les États Associés à la conference de San Francisco. les 6 et 7 Septembre 1951: Viet-nam Declaration du Président Trần Văn Hữu. // France-Asie – Saigon, 1951, 6o année, tome VII, 66-67 (Déc. 1951), pp. 502-505.
[11]. Phạm Ngọc Bảo Liêm (2010). Hội nghị San Francisco với vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tạp chí Xưa và Nay, Số 360, 7/2010.
[12]. Declaration on Princ Ples of International Law Concerning Friendly Relations and Co-operation among States in Accordance with the Charter of The United Nations. United Nations General Assembly Resolution 2625 (XXV), 24 October 1970. http://thuvienphapluat.vn/archive/Dieu-uoc-quoc-te/Tuyen-bo-nguyen-tac-cua-Luat-Quoc-te-dieu-chinh-quan-he-huu-nghi-hop-tac-giua-cac-quoc-gia-phu-hop-voi-Hien-chuong-lien-hop-quoc-1970-vb65775t31.aspx.
[13]. Rowiski Jan (1990). Biển Đông, khu vực tiềm tàng tranh chấp ở châu Á, Warszawa. (Trích theo: Nguyễn Thái Linh (2014). Tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa và luật pháp quốc tế. http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=62&CategoryID=42&News=4605).
[14].È27;[ZGPT]50È13;É05;ô43;ò13;ì16;
http://www.mitbbs.com/article_t/MiscNews/31207047.html (Website Chinanew nói về 6 cuộc chiến tranh mà Trung Quốc sẽ tiến hành để thực hiện Giấc mộng Trung Hoa trong 50 năm tới: 1/ Đài Loan 2020-2025; 2/ Biển Đông 2025-2030; 3/ Tây tạng 2035-2040; 4/ Điếu Ngư-Lưu Cầu 2040-2045; 5/ Ngoại Mông 2045-2050; Nga 2055-2060. Từ năm 2011 đến nay, 6/2014, bài viết này đã bị phản đối gay gắt trên khắp thế giới. Nhưng Trung Quốc vẫn không chịu gỡ bỏ).
[15]. Thủ tướng: Không đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông. http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/thu-tuong-khong-danh-doi-chu-quyen-lay-huu-nghi-vien-vong-2994075.html
[16]. Các tư liệu ảnh trong bài lưu giữ tại Viện Thông tin Khoa học xã hội (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam).
Theo Viện hàn lâm KHXHVN
Hiệp định Geneva: Những gì để lại cho hôm nay?
Bài học lớn nhất, bao quát nhất nhìn từ Hiệp định Geneva sau 60 năm là bài học về tinh thần độc lập tự chủ. Ngoài ra, phải hiểu cả những toan tính của "đồng chí", "đồng minh", không mơ hồ và ảo tưởng.
Sau hơn hai tháng đàm phán, từ ngày 8/5/1954, Hiệp định Geneva 1954 về Đông Dương được ký ngày 20/7/1954. Đánh giá đúng những bài học, kinh nghiệm từ Hội nghị Geneva và bản Hiệp định này trong bối cảnh hôm nay vẫn có ý nghĩa sâu sắc.
Thắng lợi chưa trọn vẹn
Hiệp định Geneva là văn bản pháp lý quốc tế thứ ba của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hai văn bản trước là Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946 được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp. Nước Pháp từ vị thế kẻ cai trị thực dân đã phải công nhận và tôn trọng quyền cao nhất của dân tộc Việt Nam là độc lập, quyền cao nhất của nhân dân Việt Nam là tự do. Nước Việt Nam từ chỗ chưa có tên trên bản đồ thế giới đã trở thành một biểu tượng sáng ngời của ý chí đấu tranh giành độc lập dân tộc, là tấm gương cổ vũ các dân tộc bị áp bức vùng lên làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ.
Vĩ tuyến 17 (Quảng Trị) trở thành giới tuyến tạm thời chia cắt hai miền Bắc - Nam.
Với Hiệp định Geneva, chúng ta đã kết thúc được chiến tranh, buộc Pháp phải rút hết quân và công nhận quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam; giải phóng hoàn toàn miền Bắc để có điều kiện xây dựng những cơ sở vật chất đầu tiên cho xã hội Xã hội Chủ nghĩa trong điều kiện hòa bình; tạo cơ sở pháp lý để đấu tranh thống nhất đất nước sau đó.
Bối cảnh khi đó, trên bàn đàm phán Geneva, Pháp đã thất bại trong trận quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ, muốn rút khỏi "bãi lầy chiến tranh" Đông Dương trong danh dự, Việt Nam đến Geneva với tư thế của người chiến thắng trên chiến trường. Việc bàn giải pháp cho cuộc chiến Đông Dương(...) không do hai bên trực tiếp tham chiến mà do các "nước lớn" giữ vai trò chính. Pháp là bên tham chiến trực tiếp nhưng luôn lẩn tránh đàm phán trực tiếp với phái đoàn Việt Nam mà dùng vai "nước lớn" để thỏa thuận ngầm với Liên Xô và đặc biệt là với Trung Quốc. Tại Geneva, Trung Quốc đã tìm mọi cách dàn xếp các vấn đề tại Hội nghị theo hướng giành lợi ích quốc gia cho Trung Quốc.
Một khó khăn khác của đoàn Việt Nam là các kênh liên lạc đều nhờ Trung Quốc với lòng tin vào tình đồng chí. Đoàn đàm phán Việt Nam gặp nhiều bất lợi, bị cô lập và không có kinh nghiệm đàm phán nên đã không (thể) bảo vệ được những yêu cầu quan trọng của mình.
Hội nghị Geneva đã quyết định những vấn đề có liên quan đến các lực lượng kháng chiến ở Lào và Campuchia mà không có sự tham gia của các chính phủ kháng chiến ở hai nước này. Đại diện cho cả ba Chính phủ kháng chiến ở Đông Dương chỉ có một đoàn đại biểu của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Việc xác định ranh giới quân sự tạm thời và phân chia khu vực tập kết chuyển quân ở Việt Nam không phải vĩ tuyến 13 hay 16 theo phương án của Việt Nam, mà là vĩ tuyến 17. Việt Nam mất ba tỉnh khu V và nhiều vùng tự do phía Nam vĩ tuyến 17.
Ở Lào, lực lượng kháng chiến chỉ được một vùng tập kết gồm hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngxalỳ - nhỏ hơn nhiều so với vùng giải phóng thực tế. Lực lượng kháng chiến Campuchia phải phục viên tại chỗ. Thời hạn tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam không phải là 6 tháng như phương án của Việt Nam, mà là 2 năm. Dù vậy, việc này đã không thể thực hiện do chính sách can thiệp và xâm lược của Mỹ.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến Thụy Sỹ dự hội nghị Genève về Đông Dương, tháng 5/1954.
Những gì Việt Nam đạt được ở Hội nghị Geneva là kết quả của 9 năm kháng chiến anh dũng, nhiều hy sinh gian khổ của nhân dân ta, nhưng kết quả đó chưa tương xứng với thực tế trên chiến trường. Nhân dân cả hai miền Nam - Bắc Việt Nam còn phải đi tiếp chặng đường dài 21 năm với nhiều sự hy sinh mất mát đau thương hơn để đạt tới điều lẽ ra đã diễn ra từ tháng 7/1956.
Bài học về tinh thần độc lập tự chủ
Bài học lớn nhất, bao quát nhất nhìn từ Hiệp định Geneva sau 60 năm là bài học về tinh thần độc lập tự chủ. Bên cạnh đó là bài học về kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngoại giao với quân sự, tạo cục diện vừa đánh vừa đàm để đối phó với kẻ địch mạnh hơn; kiềm chế kẻ thù, tạo dư luận quốc tế, gây áp lực buộc đối phương xuống thang cả trên chiến trường và trên bàn đàm phán đã được phát huy trên bàn Hội nghị Paris và chúng ta đã đạt thắng lợi.
Quá trình đàm phán để đi đến bản Hiệp định Paris (1/1973) sau này đã nói lên điều đó. Trong những ngày đàm phán ở Paris, Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ đã nói với ông H. Kissinger (được tác giả Larry Berman trích dẫn): "Trong cuộc đấu cờ, người thắng và kẻ thua phải chính là những người chơi cờ, không còn cách nào khác. Chúng tôi độc lập trong việc giải quyết vấn đề của chúng tôi" (1).
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy những "nước lớn" luôn có những toan tính chiến lược riêng. Trong đấu tranh ngoại giao, điều cốt yếu là phải phân tích và nhận rõ chiến lược và những mục tiêu của các nước "lớn" để có chiến lược và sách lược đối phó hiệu quả. Sự dàn xếp, thoả hiệp giữa các nước "lớn" tại Hội nghị Geneva làm hại đến lợi ích của Việt Nam, Lào và Campuchia. Đây cũng là điều khó tránh ở một hội nghị quốc tế, khi "luật chơi" và cả diễn biến "cuộc chơi" đều do các nước "lớn" quyết định. Ở Hội nghị Geneva, Việt Nam đã phải thuận theo nhiều lời "chỉ dẫn" bất lợi từ các "đồng chí", "đồng minh" của mình. Bài học sâu sắc qua Hội nghị Geneva là phải hiểu cả những toan tính của "đồng chí", "đồng minh", không mơ hồ và ảo tưởng.
Hội nghị Genève khai mạc ngày 26/4/1954. Mục đích ban đầu của hội nghị là bàn về khôi phục hòa bình tại Triều Tiên và Đông Dương.
Điều bộc lộ rõ trong quan hệ quốc tế hiện nay là trong nhiều trường hợp các nước "lớn" áp đặt những "luật chơi" không phù hợp, làm tổn hại đến lợi ích của nước khác. Nhưng kinh nghiệm lịch sử cũng chỉ ra rằng, tiếng nói của khu vực và các nước vừa và nhỏ có "sức nặng" đến mức nào phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó một phần lớn phụ thuộc vào sự chủ động, sự nhạy bén, khôn khéo của những nước này với các "nước lớn" và cả giữa các nước "vừa" và "nhỏ" với nhau.
Điều các nước "nhỏ" luôn cần (phải) làm là tăng cường thực lực của đất nước, tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động đối ngoại, bảo vệ chủ quyền dân tộc, bảo vệ hoà bình và an ninh quốc tế. Trong hoạt động đối ngoại phải đánh giá chính xác tình hình thế giới, nhất là chiến lược của các nước "lớn", tìm ra đối sách phù hợp trong từng thời gian, cho từng vấn đề, đảm bảo lợi ích quốc gia dân tộc. Am hiểu đối tác - đồng thời cũng là đối tượng - là yêu cầu quan trọng trong quá trình hội nhập.
Ngô Vương Anh
Theo_VietNamNet
New York Times viết về sự bạo tàn của TQ trong chiến tranh biên giới 1979 Chiến tranh biên giới 1979 bạo tàn làm tối đi cái nhìn của Việt Nam về quan hệ với Trung Quốc (Shadow of Brutal '79 War Darkens Vietnam's View of China Relations) là một bài phóng sự của báo Mỹ New York Times, viết từ Lạng Sơn. Ảnh: Bà Hiền chưa bao giờ có thể quên hết nỗi kinh hoàng của cuộc chiến...