Quá khứ hào hùng – chủ quyền thiêng liêng
Tối 3/5, cầu truyền hình Điện Biên – Hà Nội – Trường Sa đã diễn ra với chủ đề “Ký ức hào hùng – Chủ quyền thiêng liêng”. Chương trình do Bộ Ngoại giao phối hợp với Quân chủng Hải quân và TP Hà Nội tổ chức.
Đây là hoạt động hưởng ứng kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, 60 năm giải phóng Thủ đô, 39 năm giải phóng Trường Sa. Chương trình nhằm tôn vinh và phát huy truyền thống lịch sử bồi đắp tinh thần yêu nước, ý chí bảo vệ Tổ quốc; qua đó thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước trên mọi lĩnh vực. Đây cũng là dịp để nhân dân cả nước ôn lại khí thế hào hùng của dân tộc, để mọi người con tự hào và chung tay gìn giữ, phát huy thành quả của thế hệ cha anh.
Ký ức hào hùng: Điện Biên – Hà Nội – Trường Sa.
Tham dự tại điểm cầu Hà Nội có Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu; ông Bùi Thế Đức – Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương; Chuẩn đô đốc Đinh Gia Thật – Chính ủy Quân chủng Hải quân Việt Nam; cùng đại diện các Bộ, Ban, ngành Trung ương, địa phương, cựu chiến binh lão thành cách mạng, gia đình có công với cách mạng.
Tại điểm cầu Trường Sa có ông Nguyễn Thanh Sơn – Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài cùng đoàn kiều bào tiêu biểu đại diện cho 4,5 triệu kiều bào ở nước ngoài về dự các ngày lễ lớn của dân tộc.
Chương trình cầu truyền hình Điện Biên – Hà Nội – Trường Sa với chủ đề “Ký ức hào hùng – Chủ quyền thiêng liêng” gồm 4 phần: Qua miền Tây Bắc, Tiến về Hà Nội, Tổ quốc ở Trường Sa và Đất nước trọn niềm vui.
Những người lính, những nhân chứng lịch sử về tụ hội tại chương trình
Video đang HOT
Những anh hùng, nhân chứng lịch sử giao lưu với khán giả
Qua chương trình, khán giả như được sống lại trong thời khắc hào hùng lịch sử của dân tộc. Những hình ảnh lịch sử được tái hiện qua các bài hát: Hò kéo pháo, Bài hát nhìn từ biển, có một rừng xanh như thế, thương anh nhớ anh…
Đến giao lưu trong chương trình có Trung tướng Nguyễn Xuân Mậu – nguyên Chính trị viên Tiểu đoàn 681, người trực tiếp tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ; ông Nguyễn Tiến Thụ, cựu thanh niên xung phong, người trực tiếp tham gia phá bom mở đường cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Khán giả được nghe các nhân chứng lịch sử kể lại những câu chuyện xúc động, những kỷ niệm sâu sắc của các chiến sĩ đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ.
Ngoài ra, khán giả còn được giao lưu với Chuẩn Đô đốc Đinh Gia Thật, Chính ủy Quân chủng Hải quân Việt Nam trong việc gìn giữ biển đảo, những đóng góp của các chiến sĩ Hải quân Việt Nam trong lịch sử bảo vệ dân tộc.
Chia sẻ trong chương trình, ông Nguyễn Tiến Thụ cho biết: “Đến tham dự chương trình, tôi như được sống lại quá khứ hào hùng của dân tộc. Chúng ta sẽ không thể quên được những hi sinh, mất mát lớn lao của thế hệ cha anh đã làm nên sự độc lập, tự do cho dân tộc. Tôi mong muốn mọi người con dân Việt hãy tin tưởng vào chủ trương, đường lối của Đảng, chung tay gìn giữ và bảo vệ toàn vẹn đất nước”.
Q.Cường – X.Thái
Theo Dantri
Chiến dịch Điện Biên Phủ qua hồi ức vị chỉ huy trinh sát
Trong ký ức của Đại tá Nguyễn Việt, nguyên Trưởng phòng trinh sát, Cục quân báo, đời lính gian khổ nhưng đáng nhớ nhất vẫn là tình đồng chí, anh em nơi chiến hào.
Ông Nguyễn Việt hào hứng kể về những kỷ niệm oai hùng trong chiến dịch Điện Biên Phủ
Năm 1945, theo tiếng gọi của tổ quốc, cậu học sinh trường Bưởi (Hà Nội) Nguyễn Việt gia nhập du kích. Chinh chiến gan dạ trong nhiều trận đánh ở Bắc Giang, Hải Dương..., Việt nhanh chóng trở thành chính trị viên tiểu đoàn, được cử đi học nghiệp vụ trinh sát rồi được đề bạt Trưởng phòng trinh sát ban 2, Cục quân báo.
Từ tháng 1/1954, đơn vị của ông đã có mặt tại Điện Biên để theo dõi động thái của quân Pháp. Ban ngày, các chiến sỹ trong đơn vị túa đi tìm hiểu địch từ đài quan sát, mật phục "bắt lưỡi" (bắt tù binh) về khai thác hoặc nghe thông tin của đối phương qua vô tuyến điện. Khi màn đêm buông xuống, họ tìm cách lọt qua hàng rào kẽm gai dày đặc mìn để trực tiếp tìm hiểu địa hình, công tác bố phòng của địch.
Khi ấy, ông Việt được giao chỉ huy 2 đại đội trinh sát. Hàng ngày, ngoài việc tổng hợp tin tức, trinh sát thực địa, bắt và hỏi cung tù binh, với vốn tiếng Pháp kha khá của mình, ông trực tiếp ngồi nghe ngóng tình hình địch qua sóng vô tuyến.
Ông kể rằng, nhờ những lần ốp chặt tổ hợp vào tai như thế, trinh sát của ta đã nắm được rất nhiềutin tức có giá trị.
Ngày 22/1/1954, quân báo thu được tin địch đã biết kế hoạch nổ súng đánh Điện Biên Phủ vào ngày 25/1 của ta. Thông tin này khiến Đại tướng Võ Nguyên Giáp phải 2 lần trực tiếp xuống xác minh. Ngày hôm sau, lệnh chuyển hướng đánh nhanh thắng nhanh thành đánh chắc, tiến chắc được ban ra.
Qua đài quan sát cách đồi A1 hơn 1km, trinh sát nắm được tình hình đổ quân, số lượng máy bay lên xuống trong ngày, các điểm đóng quân của địch ở Mường Thanh, dãy đồi cao điểm phía Đông sông Nậm Rốn: A, C, D, Him Lam, Hồng Cúm... từ đó đánh dấu chính xác vị trí của quân Pháp trên bản đồ.
Trước đó ngày 24/12/1953, một tổ trinh sát Việt Minh thu được một chiếc thùng do máy bay Pháp thả xuống, bên trong chứa toàn tài liệu quý. Với 25 bản đồ tỷ lệ 1/25.000; 32 tấm không ảnh của toàn vùng lòng chảo Điện Biên, chúng ta đã giải quyết được bài toán khó cho chiến dịch là chưa có bản đồ biên độ, địa hình chính xác.
Để tiếp cận địch an toàn, bộ đội ta thường đi dưới các giao thông hào, tuy nhiên với lính trinh sát, không phải lúc nào hoạt động trong hào cũng tốt. Những cơn mưa trắng trời ở Điện Biên khiến lối đi ấy ngập trong bùn đất. Lính trinh sát chọn cách di chuyển nhanh trên mặt đất để đến mục tiêu trong thời gian ngắn nhất.
Người lính trinh sát năm xưa giờ đã tuổi 90. Ông trầm giọng bảo, đời lính trinh sát nguy hiểm và lắm gian lao. Có những lần ông nằm địch hậu ở Nà Sản (1952), phải nhiều ngày phải ăn bí đỏ thay cơm, đốt cỏ day có vị mặn ăn thay muối song vẫn thấy may vì nhịn đói triền miên không phải là hiếm.
Mắt ánh lên vẻ tinh nhanh, ông bảo lính trinh sát vất vả, luôn phải đi đầu đối mặt trực tiếp với kẻ địch nhưng cũng là những người giỏi xoay sở, giỏi kiếm đồ ăn, đa tài. "Tố Hữu viết: "56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt/ Máu trộn bùn non..." nhưng chúng tôi ở Điện Biên đến hơn 150 ngày mà chịu triền miên cảnh như thế thì anh em chết sớm. Thế nên dù của địch cướp về, chúng tôi dùng để lát nền hầm hay tự cắt, may thành chăn, áo trông đẹp đẽ lắm. Dây dù thì anh em đan thành võng. Thời chiến mà được nằm võng trong hầm sạch sẽ, khang trang thì "sang" quá còn gì", ông Việt cười kể.
Nỗi day dứt lớn nhất của ông Việt trong chiến dịch Điện Biên Phủ là không tìm lại được hài cốt của người đội, anh hùng Nguyễn Ngọc Bảo hi sinh tại đồi A1 dù trước đó ông đã chôn cất và đánh dấu vị trí ngôi mộ. Ảnh: Quỳnh Trang.
Ông hóm hỉnh kể về những bữa ăn sang bất ngờ khi lính trinh sát thu được những thùng đồ tiếp tế mà địch thả dù xuống, trong đó chứa đầy thực phẩm, rượu, thuốc lá... Rồi những đêm anh em nằm kể chuyện cho nhau nghe chuyện nhà, chuyện tình, trêu đùa tếu táo. "Đó là những ký ức đẹp trong cuộc đời quân ngũ", người lính già năm xưa mỉm cười nói.
1h chiều 7/5/1954, sau bao ngày đêm chiến đấu ác liệt, từ đài quan sát trên đồi A1, ông Việt thấy thấp thoáng những lá cờ trắng xuất hiện ở phía chiến hào của địch. Về chiều, cờ trắng ngày càng nhiều, địch lũ lượt kéo nhau ra hàng. "Đó là một buổi chiều hoàng hôn hùng vĩ. Cờ trắng rợp khắp nơi, địch đi hàng dài cả km rất trật tự", ông Việt kể và suýt xoa mãi vì tiếc không có chiếc máy ảnh nào để chụp lại khoảnh khắc lịch sử hào hùng này của dân tộc.
Sau phút giây hào sáng kể lại chiều chiến thắng, vị trưởng phòng trinh sát bỗng chùng giọng nhớ đến người đồng đội Nguyễn Ngọc Bảo. "Anh Bảo hi sinh khi chỉ huy tổ trinh sát tại đồi A1. Anh được phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân nhưng đến giờ vẫn chưa tìm thấy hài cốt", ông Việt ngậm ngùi. Không buồn sao được khi chính ông và đồng đội đã chôn cất, đánh dấu mộ chí của ông Bảo. Nhưng bom đạn ác liệt, 60 năm đã trôi qua là chừng ấy thời gian mọi nỗ lực tìm kiếm đều trong vô vọng. Thân xác người đồng đội anh hùng của những cựu lính trinh sát quân báo vẫn nằm đâu đó, hòa cùng đất trời, cỏ cây Điện Biên...
Theo Xahoi
Những chiếc xe đạp thồ "phi thường" trên đường lên Điện Biên Phủ "Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Thanh Hóa góp 12 vạn dân công vận tải lương thực cho bộ đội. Bây giờ tiếng Việt Nam đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó". Đó là những lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh...