‘Quả bom nhiệt’ kích hoạt, giết chết hải lưu Gulf Stream: Viễn cảnh đáng sợ nào sẽ xảy ra với con người?
Nếu hải lưu Gulf Stream ‘chết’, bờ biển phía đông của Mỹ và Tây Âu sẽ chìm vào Kỷ băng hà lạnh giá.
Được ví là ‘lò sưởi khổng lồ’ của đại dương, dòng hải lưu Gulf Stream (Dòng Vịnh) là một trong những dòng hải lưu lớn nhất, dữ dội nhất và chảy nhanh nhất Trái Đất.
Theo các nhà khoa học, nhờ có gió, trọng lực, mật độ nước biển mà hải lưu (dòng chảy đại dương) được hình thành tự sự dịch chuyển của nước trên đại dương.
Các dòng hải lưu quyết định khí hậu Trái Đất. Chúng điều hòa nước đại dương bằng cách (1) đẩy nước ấm ở vùng xích đạo về hai cực của Trái Đất và (2) đưa nước lạnh ở các cực trở lại xích đạo. Do đó, đại dương có hai loại hải lưu là hải lưu nóng và hải lưu lạnh, Gulf Stream thuộc hải lưu nóng.
Nó di chuyển từ vùng biển nóng sang vùng biển lạnh. Cụ thể, Gulf Stream mang nước biển ấm áp chảy suốt từ Vịnh Mexico đến bờ biển phía đông của Mỹ và đảo Newfoundland (Canada), sau đó băng qua Đại Tây Dương nơi nó chia làm hai nhánh – băng qua Bắc Âu và quay lại Tây Phi.
Bản đồ nhiệt của dòng hải lưu Gulf Stream tại Vịnh Mexico. Nguồn: NASA
Vào mùa Thu, nó di chuyển về phía bắc, đến mùa Đông và đầu mùa Xuân, nó di chuyển về phía nam. Chiều rộng của dòng hải lưu nóng này dao động từ 100 đến 200 km.
Cơ quan Quản lý Khí quyển và Đại dương Quốc gia Mỹ (NOAA) nhận định, Gulf Stream là hải lưu dữ dội và chảy nhanh bậc nhất Trái Đất. Tốc độ di chuyển của nó phụ thuộc vào khu vực mà nó di chuyển qua, tuy nhiên, tốc độ trung bình của Gulf Stream nhanh hơn gấp 300 lần so với tốc độ chảy cực đại của sông Amazon (Nam Mỹ, dòng sông có lưu lượng chảy lớn nhất hành tinh). Vận tốc chảy nhanh nhất mà Gulf Stream đạt được là 9 km/giờ (tương đương 2,5 mét/giây).
Gulf Stream chở khoảng 113 triệu mét khối nước mỗi giây – bằng lượng nước của tất cả các con sông trên Trái Đất cộng lại, dữ liệu của NOAA.
Các nhà khoa học đặt vấn đề: Làm cách nào mà băng tan có thể làm biến đổi thế giới? Tại sao các dòng hải lưu có khả năng đưa chúng vào Kỷ băng hà mới?
Năm 2018, tờ Guardian (Anh) dẫn thông tin của các nhà khoa học cho biết, dòng hải lưu Gulf Stream đang trong tình trạng chảy yếu nhất trong 1.600 năm. Vấn đề này khiến giới nghiên cứu không khỏi lo ngại đến vấn đề một ngày nào đó, Gulf Stream sẽ ngưng chảy, dù phải mất nhiều thế kỷ điều này mới có khả năng xảy ra.
Cần phải nhắc lại: Các dòng hải lưu quyết định khí hậu Trái Đất. Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu dòng hải lưu nóng Gulf Stream biến mất?
Video đang HOT
Các dòng hải lưu trên thế giới định hình khí hậu Trái Đất. Ảnh: SPL
Gulf Stream đóng vai trò là một phần của vành đai băng tải đại dương toàn cầu (hệ thống lưu thông nhiệt độ và độ mặn toàn cầu).
Trong các yếu tố ảnh hưởng, hải lưu có tác động rất lớn đến sự hình thành khí hậu ở các vùng trên thế giới, do khả năng truyền nhiệt cao của nước biển so với không khí, các dòng hải lưu nóng và lạnh đã điều tiết sự chênh lệch nhiệt độ giữa các vùng vĩ độ cao – thấp cũng như bờ Đông – bờ Tây của các đại dương. Ngoài ra, các dòng hải lưu còn ảnh hưởng đến lượng mưa, độ ẩm, đa dạng sinh học… của các vùng mà nó đi qua, thông tin từ website của Khí tượng Thủy văn Nam Trung Bộ.
Vậy vai trò của băng trong sự hoạt động của dòng hải lưu là gì?
Hải lưu tạo ra sự khác biệt về mật độ nước. Nước ấm có mật độ thấp hơn và nổi lên bề mặt đại dương. Ngược lại, nước lạnh có mật độ cao hơn, do đó chúng có xu hướng chìm xuống đáy.
Bên cạnh đó, còn có 1 yếu tố nữa xác định mật độ của nước đó là lượng muối của nước. Đây là lúc vai trò của băng được nhắc đến.
Băng ở các cực gồm cả nước ngọt. Khi băng tan chảy do sự nóng lên toàn cầu (tựa bom nhiệt) không ngừng gia tăng, quá trình băng tan chảy sẽ bổ sung thêm nước ngọt vào biển khiến cho nước ở Bắc Đại Tây Dương bớt đậm đặc hơn (bớt mặn hơn). Đến một lúc nào đó, nước biển lạnh sẽ không thể chìm xuống đáy được nữa. Điều này khiến băng tải đại dương toàn cầu ngừng lưu thông, ảnh hưởng đến sự di chuyển của các dòng nước đại dương (hải lưu).
Đó là lúc đánh dấu sự kết thúc của Gulf Stream, và là sự khởi đầu của một thứ đáng sợ khác: Kỷ băng hà mới!
Khi con người đang làm nóng hành tinh lên theo thời gian, thì khí hậu lại diễn biến theo những cách bất ngờ và không hề đơn giản.
Gulf Stream là một dòng hải lưu nóng. Nó giúp cho mùa Đông ở biển phía tây châu Âu trở nên ôn hòa. Nó cũng giữ cho nhiệt độ mùa Đông ấm hơn và nhiệt độ mùa Hè mát hơn trên bờ biển phía đông bang Florida (Mỹ).
Thảm kịch cụ thể gì sẽ xảy ra nếu Gulf Stream ngừng chảy, ngừng mang nước ấm đến các khu vực mà nó từng đi qua?
- Tây Âu, Bắc Mỹ sẽ chìm trong tình trạng đóng băng, lạnh giá. Nhiệt độ trung bình của châu Âu sẽ giảm tới 10 độ C.
- Bão băng sẽ hoành hành khắp Tây Ban Nha, Pháp, Bồ Đào Nha và Vương quốc Anh. London, trong số các thành phố khác, sẽ bị bao phủ trong tuyết lạnh nhiều tuần.
Bão băng sẽ hoành hành khắp Tây Ban Nha, Pháp, Bồ Đào Nha và Vương quốc Anh. Ảnh minh họa
- Bờ biển phía đông của Mỹ đối mặt một vấn đề khác – mực nước tăng. Thông thường, mực nước biển tại bờ biển nước Mỹ thấp hơn so với mực nước biển ở châu Âu. Đó là vì Gulf Stream ấm hơn khi đến châu Âu. Do vậy, nếu Gulf Stream ngừng chảy, nước biển sẽ bị đẩy về phía Mỹ.
Về lâu dài, lũ lụt ven biển sẽ phá vỡ nền nông nghiệp ở những khu vực đó, nhấn chìm các nền kinh tế dựa vào việc trồng trọt và phân phối cây trồng.
- Và trong khi bờ biển phía đông của Mỹ và Tây Âu trở nên lạnh lẽo khi chìm trong Kỷ băng hà địa phương, thì nhiệt độ ở phần còn lại của thế giới sẽ vẫn tiếp tục tăng, bởi khi đó thế giới đang chìm trong bầu khí quyển nóng do băng (đóng vai trò là tủ lạnh tự nhiên) liên tục tan.
- Biến đổi khí hậu sẽ kích hoạt các đám cháy, sóng thần, bão – tất cả cùng một lúc. Đó sẽ là một thế giới khác, một thế giới đầy rẫy thảm họa, tang thương.
Đây là những thảm kịch thời tiết mà Trái Đất đã từng thấy trước đây. Nhưng lần này, nền văn minh vượt bậc của con người sẽ bị phá vỡ.
Chỉ một ví dụ về sự kiện nếu Gulf Stream ngừng chảy, nhân loại đã đối mặt vô vàn thảm kịch tự nhiên. Trong khi đó, đại dương rộng lớn còn chứa rất nhiều các dòng hải lưu chưa được định danh, nghiên cứu. Dưới tác động ngày một nhiều của con người (phát thải khí nhà kính gây băng tan), đến 1 lúc nào đó, chính con người sẽ hủy hoại môi sinh của mình!
Bài viết sử dụng nguồn: The Guardian, Insh.world/science, Oceancurrents, NOAA, KTTV NTB
Theo Helino
Khí cười là tác nhân đứng thứ ba làm suy giảm tầng ozone
Các nhà khoa học phát hiện ra rằng, khí nitơ oxit (N2O - thường được gọi là khí cười) góp phần mạnh mẽ cho sự nóng lên toàn cầu. Việc giữ nhiệt trong khí quyển của nó gấp hơn 265 lần so với carbon dioxide và làm cạn kiệt tầng ozone.
Các nhà khoa học phát hiện ra khí nitơ đang gia tăng nhanh trong bầu khí quyển.
Hầu hết chúng ta đều biết nitơ oxit là khí gây cười, được sử dụng cho các hiệu ứng gây mê. Theo một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Biến đổi khí hậu tự nhiên (Nature Climate Change), nitơ oxit cũng là một trong những chất làm suy giảm tầng ozone chính trong tầng bình lưu và chúng ta đang giải phóng nhiều chất này vào khí quyển hơn so với suy nghĩ trước đây.
Nhà khoa học Rona L. Thompson, Viện nghiên cứu hàng không NILU, Na Uy cho biết, phát thải N2O đã tăng đáng kể trong hai thập kỷ qua. Báo cáo mới cho thấy rằng phát thải N2O đã tăng nhanh hơn so với ước tính của phương pháp tiếp cận hệ số phát thải của Hội đồng liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC).
Tác động của cuộc Cách mạng xanh
Nông nghiệp bền vững làm giảm phát thải khi N2O.
Vào đầu thế kỷ 20, quy trình Haber-Bosch đã được phát triển, cho phép ngành công nghiệp tổng hợp hóa học phân tử nitơ từ khí quyển để tạo ra phân đạm.
Sự tiến bộ này đã khởi đầu cuộc Cách mạng xanh, một trong những cuộc cách mạng lớn nhất và nhanh nhất của loài người trong thời đại chúng ta. Năng suất cây trồng trên khắp thế giới đã tăng lên nhiều lần do sử dụng phân bón nitơ và các biện pháp canh tác cải tiến khác.
Nhưng khi đất canh tác tiếp xúc với lượng nitơ hơn mức cần thiết ở dạng hoạt động (như trong phân bón), các phản ứng vi sinh vật diễn ra giải phóng khí thải N2O. Do đó, việc sử dụng không hạn chế trong phân bón nitơ đã tạo ra một sự gia tăng lớn về khí thải.
N2O là khí nhà kính quan trọng thứ ba sau carbon dioxide và metan. Giống như bẫy nhiệt, nó còn làm cạn kiệt tầng ozone trong tầng bình lưu, góp phần vào lỗ thủng tầng ozone. Sau khi được giải phóng vào khí quyển, N2O vẫn hoạt động trong hơn 100 năm.
Theo dõi khí thải từ trên cao
Phân tích thông thường về phát thải N2O từ các hoạt động của con người được ước tính từ nhiều nguồn gián tiếp khác nhau. Nó bao gồm báo cáo theo từng quốc gia, sản xuất phân bón nitơ toàn cầu, phạm vi rộng của các loại cây trồng cố định đạm và sử dụng phân xanh.
Thay vào đó, nghiên cứu đã sử dụng nồng độ N2O trong khí quyển thực tế từ hàng chục trạm quan trắc trên toàn thế giới. Sau đó, sử dụng mô hình khí quyển giải thích cách các khối không khí di chuyển ngang qua và ở giữa các lục địa để suy ra lượng phát thải có thể của các khu vực cụ thể.
Kết quả thấy lượng phát thải N2O toàn cầu đã tăng lên trong hai thập kỷ qua và mức tăng nhanh nhất là từ năm 2009. Trung Quốc và Brazil là hai quốc gia làm tăng lượng khí thải N2O nhiều nhất. Điều này có liên quan đến sự gia tăng vượt bậc trong việc sử dụng phân bón nitơ và mở rộng các loại cây trồng cố định đạm như đậu tương.
Lượng khí thải được báo cáo từ hai quốc gia này, dựa trên phương pháp do Hội đồng liên chính phủ về biến đổi khí hậu phát triển, cho thấy thấp hơn đáng kể so với mức N2O suy ra trong bầu khí quyển ở các khu vực đó.
Sự không phù hợp này dường như phát sinh từ thực tế là khí thải ở những khu vực này cao hơn tương ứng với việc sử dụng phân bón nitơ. Điều này cho thấy có một lượng nitơ trong quá khứ mà thực vật không thể sử dụng hết. Khi ngưỡng đó vượt quá mức ở các vùng trồng trọt, lượng khí thải N2O tăng theo cấp số nhân.
Ước tính N2O phát thải từ nông nghiệp bằng cách sử dụng các phương pháp tiếp cận yếu tố phát thải của IPCC (màu xanh), yếu tố phát thải tính toán trong nghiên cứu này (màu xanh lá cây), và kết quả trung bình của các đảo ngược ở khí quyển trong nghiên cứu này (màu đen).
Đảo ngược xu hướng
Giảm phát thải N2O từ nông nghiệp sẽ trở nên rất thử thách, do sự tăng trưởng toàn cầu dự kiến về dân số, nhu cầu thực phẩm và các sản phẩm dựa trên sinh khối bao gồm cả năng lượng.
Tuy nhiên, tất cả các kịch bản phát thải trong tương lai phù hợp với các mục tiêu của Hiệp ước Paris yêu cầu phát thải N2O phải ngừng tăng trưởng, và trong hầu hết các trường hợp, mức giảm phải ở giữa 10% và 30% vào giữa thế kỷ.
Các số liệu cho thấy khí thải từ Mỹ và châu Âu đã không tăng trong hơn hai thập kỷ, nhưng năng suất cây trồng trên các khu vực này tăng hoặc duy trì ổn định. Cả hai khu vực đã tạo ra các quy định mạnh mẽ đủ lớn để ngăn chặn sự tích lũy quá mức của nitơ trong đất và vào dòng nước.
Ở lĩnh vực này và các nghiên cứu khác đã cho thấy sự thành công của nông nghiệp bền vững hơn trong việc giảm khí thải trong khi tăng năng suất cây trồng và lợi ích kinh tế ở cấp độ trang trại.
Để làm tăng hiệu quả sử dụng nitơ và giảm lượng khí thải N2O cần các ứng dụng chính xác của nitơ trong không gian và thời gian, sử dụng cây trồng cố định đạm trong luân canh, giảm bớt cầy xới đất canh tác hoặc áp dụng kỹ thuật không cầy xới (một kỹ thuật nông nghiệp để trồng trọt mùa màng hay đồng cỏ chăn nuôi mà không làm xáo trộn đất), phòng chống ngập nước và việc sử dụng các chất ức chế nitrat hóa.
Các khung pháp lý đã cho thấy kết quả đôi bên cùng có lợi ở một số quốc gia. Với sự thích ứng thông minh với nhu cầu của các quốc gia và khu vực khác nhau, chúng cũng có thể ứng dụng ở những nơi khác.
HOÀNG DƯƠNG
Theo nhandan.com.vn/Phys, Sciencedaily
'Cơn mưa châu chấu' khiến một thành phố tại Pakistan tê liệt Cơ quan bảo vệ thực vật thuộc Bộ Nghiên cứu và An ninh lương thực Pakistan cho biết hiện tượng châu chấu sa mạc xâm chiếm các thành phố do đây là mùa di cư của loài côn trùng này, chúng sẽ bay từ khu vực sinh sản mùa hè đến các khu vực ven biển của tỉnh Balochistan. Thành phố Karachi -...