Quả Cà Trong Ẩm Thực Việt
Quả cà không có mùi hương quyến rũ hay vị ngọt hấp dẫn, nhưng khi được kết hợp với những nguyên liệu “đo ni đóng giầy” nó lại tạo nên nhiều món ăn đa dạng và vô cùng cuốn hút.
Gọi là “đo ni đóng giày” cũng phải, vì nếu như ẩm thực luôn ủng hộ sự sáng tạo, thì riêng với những món ăn làm từ cà pháo, cà bát, cà tím Việt Nam, món ăn phải “cổ điển” một chút mới được người ta mê đắm. Từ món cà muối, cà xổi đến bát cà bung hay đĩa cà nướng.
Cà muối
Vị ngon khó quên
Đơn giản nhất là món cà muối, nhưng chính trong cách làm món lại toát lên kỹ thuật bếp núc của đất nước hình chữ S, bề ngoài đơn giản mà thực chất cần sự tỉ mỉ và tinh tế. Cách làm cá muối có thể nói đơn giản là dùng nước muối làm chín cà, nhưng để cho cà ngon thì cần phơi qua nắng giúp tạo độ giòn, muốn thơm thì thêm riềng, tỏi, ớt, cần tạo độ ngọt thì nên thêm vài ba thanh mía. Trong mâm cơm miền Bắc, chẳng ai nỡ bỏ qua món ăn này.
Do có rất nhiều loại cà để muối, nên món cà càng hấp dẫn hơn theo khẩu vị của từng người và từng vùng miền. Cà Nghệ được mệnh danh là loại cà pháo ngon nhất với độ giòn, mùi thơm và sắc vỏ màu trắng rất bắt mắt khi thêm vài sợi ớt thái chỉ. Cà Nghệ trắng tròn, dày cùi và ít hạt, do vậy cũng khiến món ăn ngon hơn là loại cà trắng của miền Bắc vốn nhiều hạt cứng, cùi mỏng.
Video đang HOT
Cà muối xổi
Người miền Bắc còn có món cà pháo màu xanh muối xổi, cách thức muối xổi cầu kỳ hơn trong Nam bởi phải muối lại lần hai sau một ngày, để tạo vị ngon. Cà muối xổi miền Bắc có đặc điểm là dùng quả non mà vẫn tạo độ giòn, hạt mềm, cùi khá dày. Với lứa quả già hơn một chút thì đem muối chua bình thường ăn cùng nước rau muống luộc có chút vị chua của chanh (hoặc tùy mùa mà giằm sấu, muỗng, me) thêm vài con tôm rang thì bát trước đưa bát sau đến hết nồi cơm mà không sợ ứ bụng.
Cà muối xổi chấm mắm tôm là món ăn quen thuộc của người dân Bắc và một số tỉnh miền Trung. Cà muối xổi có thể là cà pháo hoặc cà bát. Miếng cà còn tươi và giòn, lẫn với vị cay của ớt, chút ngọt của đường, độ chua dịu của chanh quyện lấy mùi vị đặc trưng của mắm tôm, tạo nên sự khoải khẩu đặc biệt. Với món cà bát sống (đem thái miếng) chấm với mắm tôm, người ăn có thêm thú thưởng thức độ giòn ở vỏ, mềm ở cùi của cà lẫn cùng vị mắm tôm. Đây là ưu điểm của cà bát mà cà pháo không có được.
Cà bát cũng có hai màu xanh, trắng và giống như cà pháo, cà xanh ăn ngon hơn vị dày cùi, ít hạt. Nếu cà bát, cà pháo ngon ở món muối hoặc ăn sống, thì cà tím lại ngon ở món làm chín. Cà tím luôn là nguyên liệu tạo nên cảm hứng sáng tạo của nhiều đầu bếp trong cả món rán, như cà tím bao bột rán giòn, cà tím cuộn thịt chiên xù, cà tím rán xốt húng tây…, món hấp như bí đỏ cà tím hấp dầu ô liu, cà tím hấp nước tương tỏi… và món xào như cà tím xào thịt bê, cà tím xào rau ngổ…
Truyền thống hơn có bát cà tím bung. Không một loại cà nào có thể thay thế cà tím trong món này bởi vị bùi, mềm, hơi ngậy khi nấu cùng thịt, rau tạo nên món ăn nửa xào nửa canh ngon miệng, hấp dẫn. Nếu có ai đó muốn thử cà bát để nấu thì chắc chắn sẽ có được một món ăn lạ hơn, dai và hơi ngại.
Cà tím cuộn thịt chiên xù
Chẳng cứ Bắc Nam
Không như nhiều món chỉ có trong Nam mà vắng bặt ở ngoài Bắc và ngược lại, cà có thể tìm thấy khắp nơi trên đất Việt. Như loại cà tím quả dài, quen thuộc ở cả ba vùng miền còn được gọi với một cái tên không lấy gì làm thanh tao, cả dái dê. Những món ăn từ loại cà này thì dù đơn giản mấy cũng hấp dẫn khôn lường. Như món cà nướng mỡ hành.
Chỉ là cà nướng trên than hoa, gỡ bỏ lớp vỏ đã cháy đen để lộ ra lớp thịt trắng nõn nà. Thêm bát mỡ hành xanh mướt rưới lên, trộn đều với nước mắm pha chua ngọt, cứ gọi là ăn quên thôi. Mùi khói oi oi của món cà này không làm người ta khó chịu mà lại có nét thú vị riêng, có thể ví như cái thú vị khi nghe một giọng ca khàn lạ lạ.
Miền Bắc còn một loại quả tròn, to như cà bát nhưng không có múi mà vỏ ruột mịn đều. Đây chính là loại cà tím dành cho bát canh cà bung nổi tiếng xứ Bắc. Và tuy loại cà phía Bắc có trội hơn phía Nam vì có thêm cà tím loại tròn đặc biệt ấy, thì cà pháo ngoài Bắc lại công nhận không có được giống như cà pháo xuất xứ thuộc tỉnh Kiên Giang.
Cà miền Bắc chỉ có một chút vị ngọt ngái khi ăn sống, và chỉ lên được hương vị khi muối cùng gia vị, củ quả. Còn cà Cái Sắn thì độc đáo hơn, quả to, cùi dày, hạt ít, giòn, ngọt. Cà Cái Sắn mà xóc tỏi, ớt, chanh theo kiểu muối xổi miền Nam, ăn vào cứ gọi là ngọt lừ, chấm thêm mắm tôm nữa thì nghe nói chưa có cô gái nào chỉ thẹn thùng ăn một bát.
Vào một ngày nào đó, sẽ có một vài món ăn được coi là “lỗi mốt” vì dễ gây ngán, không phù hợp với tiêu chí “ít chất gây phát phì” trong cuộc sống công nghiệp hiện nay luôn dư thừa chất béo và đạm. Nhưng với món cà, dường như người ta không tìm thấy từ “lỗi mốt” trong tự điển món ăn từ loại trái cây này, bởi sự đa dạng trong kiểu món, và hơn thế nữa là tính y học trong cà.
Người xưa thường nói “Một quả cà bằng ba thang thuốc”, nhưng dường như đó là bởi cách ăn có phần sống xít hoặc đạm bạc của món cà. Kỳ thực, cà có tính hàn, giúp nhuận tràng, lợi tiểu, chống ho lao. Cà tím còn có tác dụng chống ứ đọng cholestorol và ure huyết nên là biện pháp hàng đầu để giảm cholestorol trong máu. Do vậy, cà tím rất có lợi trong việc điều trị các bệnh tim mạch, huyết áp cao, béo phì, tiểu đường, gút.
Cà còn ngày càng phổ biến trong thực đơn của nhiều nhà hàng hương quê lẫn hiện đại. Còn trên mọi mâm cơm vào mùa nóng thì món ăn này luôn là ưu tiên số một. Không có món nào có vị chua, giòn, dễ đưa cơm và hợp với nhiều món ăn như cà.
Theo Amthuc.com.vn
Ăn mặn chẳng đẻ con trai, còn sinh trăm bệnh
Ít người biết, không những không đẻ được con trai, ăn mặn còn sinh thêm đủ thứ bệnh.
"Ăn mặn đẻ con trai", chẳng biết từ khi nào bí quyết này được dân "trọng nam khinh nữ" truyền miệng cho nhau để thực hành. Thế nhưng, ít người biết, không những không đẻ được con trai, ăn mặn còn sinh thêm đủ thứ bệnh.
Càng nghèo càng ăn nhiều... muối
Theo công bố của Viện Dinh dưỡng Quốc gia, hiện nay, mức sử dụng muối trung bình của người Việt Nam lên đến 18 - 22g muối/người/ngày, cao gấp ba lần khuyến cáo (dưới 6g/người/ngày). Tuỳ theo từng vùng thói quen ăn mặn khác nhau, chẳng hạn Hà Nam, Yên Bái là 13 - 15g/ ngày, trong khi ở các vùng biển hay các nơi còn nghèo, mức độ này tăng lên gấp 2- 3 lần.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Lâm, Phó viện trưởng Viện dinh dưỡng, nhu cầu sử dụng muối tăng cao một phần do thói quen ăn mặn, phần khác vì nhu cầu đời sống tăng cao, người dân sử dụng nhiều thực phẩm chế biến sẵn và nhiều các loại gia vị đi kèm và đây chính là nguồn cung cấp muối nhiều nhất.
Nếu tính chung, muối có trong thực phẩm tự nhiên và nước uống chiếm 20 - 40%, trong thực phẩm chế biến là 40 - 60%.
Đặc biệt, hàm lượng muối tăng các trong các loại gia vị ăn kèm như tương, xì dầu, mù tạc, cà muối, nước mắm.... Chỉ trong 10ml nước mắm cũng có tới 2g muối ăn.
Ngoài vai trò quan trọng trong việc bảo quản và chế biến thức ăn, muối rất cần thiết cho cơ thể. Muối điều hoà lượng nước đến các bộ phận để phục hồi sinh lực cũng như bổ sung nhiều khoáng chất bị tiêu hao trong quá trình lao động, tập luyện hay vui chơi, giải trí; giúp kiểm soát khối lượng máu, điều hoà huyết áp; duy trì nồng độ axit/ kiềm của cơ thể; dẫn truyền tín hiệu thần kinh; giúp cơ thể tăng trưởng, bắp thịt co ruỗi; hỗ trợ việc hấp thu đường glucoza và các chất dinh dưỡng khác trong cơ thể...
Có thể tử vong vì rối loạn điện giải
Tuy nhiên, do muối có chứa nhiều natri (sodium) 40% nên việc sử dụng muối không hợp lý gây nguy hại cho sức khoẻ. Natri là một trong những chất điện giải cơ bản trong cơ thể. Quá nhiều hay quá ít muối ăn trong ăn uống có thể dẫn đến rối loạn điện giải, có thể dẫn tới các vấn đề về thần kinh rất nguy hiểm, thậm chí có thể gây chết người. Việc sử dụng quá nhiều muối ăn còn liên quan đến bệnh cao huyết áp.
Các nghiên cứu cho thấy, người dân Hà Nội sử dụng 9g muối, tỷ lệ tăng huyết áp cao là 11%; Nghệ An 13g, tỷ lệ 17 - 18%.
Cao huyết áp là một trong những nguy cơ đưa đến tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim và suy thận.
Các nghiên cứu khác trên thế giới cũng cho thấy, việc hấp thu quá nhiều sodium mỗi ngày khiến cơ thể bài tiết một lượng lớn canxi, làm tăng nguy cơ mắc bệnh loãng loãng xương.
Ăn quá mặn cũng dẫn đến ung thư dạ dày, sỏi thận, thận hư nhiễm mỡ và nhất là việc tích trữ quá nhiều sodium sẽ gây ra tác động phá vỡ cấu trúc chuỗi ADN, khiến các cơ chế phục hồi tế bào trong cơ thể ngừng hoạt động hoặc hoạt động kém hiệu quả...
Theo Tiến sĩ Lâm, tốt nhất mỗi ngày, chúng ta chỉ nên tiêu thụ khoảng từ 3 đền 6g muối. Đối với những người bị cao huyết áp thì chỉ nên dùng tối đa là 2 - 4g muối/ngày.
Trẻ em, người già và phụ nữ có thai nên dùng ở tỷ lệ thấp hơn. Chúng ta nên cố gắng điều chỉnh lại khẩu vị hợp lý bằng cách tránh tối đa việc lạm dụng muối trong bảo quản thực phẩm và chế biến các món ăn, đặc biệt nên hạn chế sử dụng những loại thực phẩm chế biến sẵn có chứa nhiều sodium như mì sợi, các loại thực phẩm được chế biến và đóng gói sẵn, thực phẩm đông lạnh, thịt gia cầm làm sẵn, các món dưa chua làm từ rau củ tươi, các loại ruốc hay mắm nêm có hàm lượng muối cao, các loại thức ăn nhanh như khoai tây chiên, phồng tôm...
Mối liên quan giữa muối và cao huyết áp
- Dưới 1,6g muối/ngày/người: rất ít gặp huyết áp cao.
- Từ 1,6g đến 8g muối/ngày/người: số người cao huyết áp tăng lên tới 15%.
Trên 8g muối/ngày/người: số người cao huyết áp tăng lên tới 30%.
Cách để giảm muối
- Nên dùng thực phẩm tươi, hạn chế thực phẩm chế biến, đóng hộp.
- Không cho thêm muối khi ăn.
- Không cho nhiều muối khi nấu thực phẩm. Khi ăn thấy nhạt thì dùng thêm.
- Cho muối khi thức ăn đã gần chín sẽ có cảm giác mặn hơn.
- Rửa các loại thực phẩm ướp muối nhiều lần với nước lã để loại bớt muối.
- Không để lọ muối trên bàn ăn.
- Không cho muối vào rau luộc vì muối hút nước từ rau ra, rau sẽ cứng.
Theo Tiền Phong