Praha trong tôi
Đứng trên đồi Strahov nhìn xuống mới thấy hết sự kỳ vĩ của Praha. Bốn phía thủ đô au au ngói đỏ, xen kẽ là hàng trăm ngọn tháp đôi, tháp đơn tua tủa như nấm, như măng.
Mây nước sông Vltava như dải lụa mềm mại soi bóng cây, bóng nhà cổ kính khi xa, lúc gần, khi cao, kéo dài suốt đôi bờ qua lòng thành phố.
Chiều buông, Mặt trời lẩn khuất sau dãy đồi Strahov, Vltava ngời trắng ánh bạc và thành phố trùm lên màn the huyền ảo thì Praha khác nào chốn bồng tiên như thực như mơ…
1. Cao Trần Hiếu, người Cao Xá (Lâm Thao, Phú Thọ) đã 30 năm sinh cơ lập nghiệp tại đây, khá am tường Praha. Tôi và Hiếu có cả chục lần thăm thú thưởng ngoạn cảnh sắc thủ đô xứ sở Trung Âu này. Mỗi lần đến là một lần thêm hiểu, thêm yêu.
Lần đầu, Hiếu dẫn tôi lên điểm cao nhìn bao quát toàn cảnh thủ đô với Cung điện Lobkowicz. Lần sau, biết thêm về phố cổ, cầu Tình với Quảng trường Old Town… Nghe, xem rồi đọc lại lịch sử kiến trúc mới hay Hiếu là người rất có trách nhiệm khi thông tin. Chắc chắn. Kiệm lời. Thông thạo. Khiêm nhường và đặc biệt là không hề ngoa ngôn.
Phong cảnh Praha.
Về lai lịch thành phố, Hiếu kể theo sách: Hơn nghìn năm trước Praha được sinh ra từ giấc mơ của nàng công chúa Libuse… Pháo đài Vysehrad và Hradcany được xây cất trước tiên… Năm 1257, vua Premysl Otakar II cho xây thêm khu Mala Strana.
Từ đây, Praha trở thành thủ phủ hoành tráng nhất dưới triều hoàng đế Charles IV với nhiều kiến trúc siêu hạng như: Cầu Charles, nhà thờ Saint-Guy, khu Nove Mesto. Praha được xem là nơi hội tụ các phong cách nghệ thuật và kiến trúc đặc sắc nhất của châu Âu… Các công trình kiến trúc đều bằng đá hoa cương, chạm khắc rất công phu, nghệ thuật tinh xảo…
Sau cuộc cách mạng Nhung 1989, Praha được hoàn thiện thêm bởi nhiều nguồn đầu tư nước ngoài và những dự án trùng tu, trong đó có dự án dành cho hàng triệu khách du lịch mà thành phố nghênh đón mỗi năm. Nove Mesto – khu phố mới, trung tâm của Praha hiện đại có những đại lộ thênh thang và Quảng trường Venceslas!…
Hiếu chốt lại như cốt để tôi đừng quên: Từ năm 1920, Praha là thành phố lớn nhất Cộng hòa Séc và cũng là một trong sáu thành phố ở châu Âu, sau London, Paris, Rome, Madrid, Berlin được khách du lịch tới thăm nhiều nhất. Năm 1992, trung tâm Praha được UNESCO công nhận là Di sản thế giới!
Lâu đài Praha.
2. Ba tháng, tròn 90 ngày gắn bó với Cộng đồng người Việt Nam làm ăn sinh sống và lập nghiệp tại Cộng hòa Séc, tôi biết thêm trên đất nước này có tới 65.000 người Việt sinh sống, riêng thủ đô Praha thì đã tới con số cả vạn. Bởi thế đến đâu trên đất nước này cũng rất dễ dàng nhận ra người Việt của chúng ta…
Đi trên cầu Charles, cầu chỉ dành riêng cho người đi bộ bắc qua sông Vltava, nối giữa phố cổ Stare Mestro và khu Mala Strana, bất ngờ tôi gặp một họa sĩ người Việt đang dán mắt lên giá vẽ, ký họa chân dung cô gái người Hungary.
Hóa ra, anh là Hoàng Anh, dân xứ Huế chính gốc, sang đây từ năm 1987. Đã ở tuổi 60 mà vẫn chưa nhạt nét thư sinh trên khuôn mặt và cả thân hình. Nhân đà câu chuyện, anh bảo: Anh đam mê nghề họa từ nhỏ mà Tiệp Khắc vốn là đất nước của cầm kỳ thi họa.
Anh lập nghiệp ở đây cũng vì nghề! Hỏi chuyện thu nhập, Hoàng Anh đáp gọn lỏn: Tự do hành nghề! Tài nhiều thì giàu to. Tài mọn thì sống mọn. Ví như lên cầu này, phải nộp lệ phí 300 kurun mỗi ngày, vị chi là hết một ký họa chân dung. Để sống và nuôi vợ con thì mỗi ngày phải vẽ vài ba bức ký họa. Nghề này hệt như người đi câu ấy mà!…
Anh cười, nụ cười ròn tươi, rất mãn nguyện, rất thân thương là Huế. Tò mò, tôi lại hỏi: Sao người ta lại gọi cây cầu này là “cầu Tình”? Hoàng Anh ngồi thu lại, hai tay bó gối, giọng Huế nguyên vẹn: Đâu mô! Ấy là cách gọi của người Việt Nam mình. Thăm Praha rồi anh sẽ biết. Ví như chợ trung tâm có tượng con bò ngay lối cổng, người Việt mình liền gọi là chợ Con Bò, Quảng trường Old Town có chiếc đồng hồ Con Gà thì thuận miệng gọi luôn là Quảng trường Con Gà. Gọi mãi thành quen!
Một nét đêm hội trăng rằm ở Rumburk và Sluknov.
Vui gặp gỡ, Hoàng Anh cặn kẽ giới thiệu: Cây cầu bằng đá này dài 516 m, rộng 10 m, 16 nhịp, mang tên vị Hoàng đế Charles IV (1316 – 1378) của Séc do kiến trúc sư Peter Parler (1330 – 1399) xây dựng hồi thế kỷ 14, bắc qua sông Vltava, nối phố cổ Stare Mestro và khu Mala Strana. Hai bên thành cầu Charles là quần thể tượng thánh với 30 pho khác nhau bằng đá kiến trúc kiểu Ma-rốc.
Nơi đây là điểm vui chơi biểu diễn của các tốp nhạc công, là sân chơi phô diễn tài năng ký họa của các họa sĩ ở Praha và là nơi bán đồ lưu niệm cho khách tham quan!…
Đứng trên cầu, chúng tôi mãn nhãn chiêm ngưỡng cảnh quan Praha. Sông Vltava êm đềm, thiên nga trắng phau sóng đôi từng cặp từng cặp, hải âu chao liệng, thuyền tàu ngược xuôi như trôi giữa bóng núi mây trời…
Video đang HOT
Theo tục truyền, chúng tôi xếp hàng đợi lượt để tận tay sờ vào hai bức tranh bằng đồng, một bức là cảnh hoàng hậu xưng tội, bức kia là cảnh vị linh mục bị hành hình.
Đồn rằng, ai đặt tay vào một trong hai bức tranh và thành tâm ước điều gì đấy thì sẽ được như ý. Tôi đặt cả bàn tay vào hai bức tranh bằng đồng vàng óng, miệng khẩn cầu: Xin các đấng thánh thần phù hộ cho nhân loại mãi mãi được sống trong hòa bình, hạnh phúc! Những kẻ bành trướng sẽ bị trừng trị!
Quảng trường Old Town (tức Quảng trường Con Gà). Khu quảng trường chính của phố cổ Praha được bao quanh bởi nhà thờ Đức Bà Tyn màu xám đen với hai ngọn tháp vút cao, cùng tháp đồng hồ sừng sững bao gồm đồng hồ Thiên văn Astronomical và lịch nguyên năm Calendarium thiết kế từ thế kỷ thứ 15.
Mỗi khi chuông Skeleton ngân vang báo giờ, 12 bức tượng Thánh tông đồ lại lần lượt mở cửa sổ đồng hồ chào du khách. Có thật không lời truyền: Ai nghe được tiếng chuông Skeleton ngân vang báo hiệu mỗi giờ thì sẽ gặt hái nhiều may mắn? Tôi bèn nán lại để nghe và thật may mắn, được tận mắt chứng kiến sự hiếu kỳ và tâm niệm của những con người đến từ bốn phương trời, mười phương đất. Nêm chen.
Đứng đây. Đợi đây. Nghe cho tỏ tường nhịp chuông đồng hồ điểm, rồi mới thung thăng tản bộ vào những ngả đường phố cổ chật hẹp mà cao sang luôn vang lên những tiếng lọc cọc của vó ngựa xe trên nền đường gạch xanh, gạch xám…
Khu phố cổ Praha.
3. Thật có lý, khi nói rằng: Praha đẹp hiền hòa, cổ kính. Praha hiếu khách… Có người lại bảo: Praha đằm thắm bởi sự hài hòa của các loại hình nghệ thuật truyền thống, âm nhạc, khiêu vũ, phim ảnh và kịch trường!…
Dẫu là vậy thì Praha cổ kính và hiếu khách vẫn mãi là nét bao trùm ẩn sâu, bền lâu trong nỗi nhớ của tôi… Giống như Hà Nội, tôi thầm nghĩ Praha cũng chính là thủ đô của lương tri và phẩm giá con người. Hình sông, thế núi, khí thiêng trời đất đã tạo nên thế trụ “Thiên sơn vạn thủy triều lai” của Praha.
Lịch sử tô điểm, thời gian bồi đắp, chiều sâu văn hóa, chiều cao trí lực của dân tộc chuộng tự do, bình đẳng, bác ái mãi là điểm nhấn, điểm hấp dẫn nhân loại tìm về… Dù vật đổi, sao rời, dù thế sự đổi thay thì tình người Praha (nước Tiệp Khắc xưa) và Cộng hòa Séc ngày nay vẫn duy trì được sự gắn kết mặn nồng.
Tôi yêu nước Tiệp Khắc xưa với phóng viên Báo Cờ Đỏ ra sao thì nay vẫn vẹn nguyên một tình yêu như thế. Sáu mươi năm trước tôi từng trân trọng Chủ tịch nước CHXHCN Tiệp Khắc, ông Antony, và sau đấy (1953 – 1957) là Chủ tịch Dapotốtxki, vun vỗ không ngừng cho tình hữu nghị Việt – Tiệp.
Tư liệu lịch sử còn mãi những dòng này đây: “Cột mốc cơ bản trong việc người Việt Nam nhập cư sang Tiệp Khắc là năm 1973, khi ấy đoàn đại biểu Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang thăm Tiệp Khắc để hội đàm về việc sẽ có mười đến mười hai nghìn công dân Việt Nam sang học nghề.
Các hiệp định được ký kết trong khoảng thời gian 1973, 1974, 1979 và 1980 đã tạo điều kiện cho khối lượng lớn công nhân, học sinh học nghề, sinh viên và thực tập sinh sang học. Vào nửa đầu những năm 80, số lượng công dân Việt Nam tại Cộng hòa XHCN Tiệp Khắc là khoảng 30.000.
Nửa sau của những năm 80, số lượng này giảm dần và đến năm 1990, hiệp ước giữa hai nước đã kết thúc. Dù có những thay đổi về chính trị tại Đông Âu vào cuối và đầu những năm 80 và 90, quan hệ Séc – Việt không hề bị gián đoạn và sự thay đổi về điều kiện kinh tế tại Tiệp Khắc đã tạo điều kiện cho người Việt Nam kinh doanh.
Do đó, tại Tiệp Khắc đã có nhiều người Việt Nam từ Cộng hòa Dân chủ Đức, và từ các nước khác thuộc khối XHCN trước đây tìm sang định cư. Năm 2000, trên lãnh thổ Cộng hòa Séc có khoảng 20.000 công dân Việt Nam chuyên về kinh doanh.
Số người Việt Nam hiện nay tại Cộng hòa Séc được ước đoán là khoảng 65.000 và người Việt Nam tại Cộng hòa Séc là nhóm người nước ngoài đông thứ ba có cư trú dài hạn hoặc định cư.
Tại Cộng hòa Séc hiện nay có một số tổ chức của người Việt (Hội người Việt Nam tại Cộng hòa Séc, Hội các doanh nhân Việt Nam và Hiệp hội Công dân Cộng hòa Séc nói tiếng Việt) và cho xuất bản một số báo định kỳ bằng tiếng Việt (Vạn Xuân, Tuần tin mới và Vườn đào)…
Yêu quý Praha bao nhiêu thì tôi lại càng quý trọng những lời gan ruột của ngài Tổng thống Václav Klaus bấy nhiêu: Dù Việt Nam và Cộng hòa Séc cách xa nhau hàng vạn cây số, tôi vẫn dám khẳng định rằng quan hệ giữa hai đất nước chúng ta là quan hệ đặc biệt ở nhiều góc cạnh…
Cộng hòa Séc đã trở thành quê hương của hàng vạn công dân Việt Nam, những con người bằng sự cần cù chịu thương chịu khó đang góp phần vào việc phát triển đất nước chúng tôi và họ là sợi dây gắn kết mãi mãi, là nguồn xúc tác trong quan hệ hợp tác nhiều mặt.
Nhờ có họ mà Việt Nam, một đất nước khác biệt về văn hóa, vị trí địa lý và cảnh quan, lại trở nên gần gũi đối với chúng tôi.
Nguồn mạch tình cảm thế ấy lại đã và đang được Tổng thống Cộng hòa Séc Milos Zeman phát lộ theo chiều sâu sự hội nhập giữa hai quốc gia, bằng việc người Việt tại Công hòa Séc đã chính thức được thừa nhận là dân tộc thứ 14 (dân tộc ít người của Cộng hòa Séc).
4. Nhớ mãi hôm chúng tôi tới thăm cơ ngơi làm đẹp móng tay, móng chân của gia đình anh chị Phong – Long quê gốc Việt Trì, Phú Thọ. Hiện định cư tại mặt phố chính của Quảng trường Vaclavské Names (người Việt thường gọi là Quảng trường Con Ngựa) tại trung tâm thủ đô Praha.
Cửa hiệu sang trọng, khách tây, khách ta lúc nào cũng kín chỗ. Bốn năm nhân viên kỹ thuật luôn tay với việc, luôn vui vẻ chuyện trò cùng khách.
Cháu Tuấn Anh, tuổi 11, học lớp 5 khôn ngoan trước tuổi rất niềm nở khi biết chúng tôi là người Việt Nam mới tới. Tuấn Anh lon ton dẫn chúng tôi xem hoa hồng bạch mùa thu nở trắng khuôn bồn dọc lối lên, xuống giữa Quảng trường Con Ngựa.
Sau bức ảnh lưu niệm với mùa hoa đẹp, cháu hồn nhiên hỏi chúng tôi: Ông có yêu thành phố này không? Kéo cháu vào lòng, tôi bảo: Praha đẹp lắm. Không yêu sao được, cháu ơi?
Cháu nở nụ cười thơ ngây: Thủ đô của cháu đấy! Chúng cháu phải giữ cho Praha mãi sạch đẹp! Thế Thủ đô Hà Nội có phải của cháu không? Tôi hỏi, cháu nói giọng chắc đinh: Ông ơi, Việt Nam là của cháu, Thủ đô Hà Nội cũng là của cháu.
Cháu có hai nước, hai thủ đô đẹp như nhau! Nói rồi cháu xin bố mẹ đưa tôi vào thăm vườn hoa hồng đỏ, nơi nghỉ ngơi tĩnh dưỡng tinh thần của người lao động sau mỗi buổi làm việc căng thẳng…
Lời của cháu Tuấn Anh đã khắc sâu vào ký ức tôi. Thế hệ người Việt sinh ra ở xứ trời xa xôi này đã và đang hội nhập khá nhanh chóng và bền lâu ngay trên đất này, nhưng vẫn thủy chung với quê cha đất mẹ…
Và, không ai khác chính họ là cầu nối, là sợi dây liên kết để bản sắc văn hóa Việt – Séc đời nối đời nhân lên, tỏa phát. Như Thủ đô Hà Nội – như Praha, như Hoàng Thành (Hà Nội), như Thành Cổ (Praha) mãi mãi là chuyện kể của những mốc thời gian, của những triều đại, những thời đại biết thượng tôn lịch sử, văn hóa và mỹ thuật!
Đồng hồ thiên văn ở Praha và nghi thức chuyển giờ kỳ lạ
Sau một đêm nghỉ ngơi ở một khách sạn gần thủ đô Praha (hay Prague), sáng hôm sau đoàn tiếp tục lên xe đi Praha; thủ đô của nước Cộng hòa Czech; quốc gia mà nhiều người vẫn gọi theo tên cũ là nước Tiệp Khắc. Hướng dẫn viên thông báo đoàn sẽ đến sớm tại khu quảng trường trung tâm, ở đó mọi người được tự do đi lại thăm thú thành phố cổ, nhưng gần đến 12 giờ sẽ được chứng kiến hiện tượng rất thú vị từ chiếc đồng hồ thiên văn cổ nhất thế giới đặt tại quảng trường chính.
Trước khi đến Praha để chiêm ngưỡng cái đồng hồ nổi tiếng này, một người thân ở Pháp gọi điện bảo là nên tìm hiểu trước, vì nếu quan sát mà chưa hiểu gì về nó thì cũng... như không! Do đó, đêm hôm trước chúng tôi tranh thủ xem qua các thông tin ở các tập sách mỏng tại khách sạn dành cho du khách để có thể hiểu rõ những gì sẽ diễn ra khi đến đó.
Khu phố cổ ở trung tâm Praha.
Tiến vào khu vực trung tâm, một không gian cổ kính ngoài sức tưởng tượng hiện ra bao quanh cả bốn hướng. Khu vực quảng trường không rộng lắm, hay có thể nó rộng mà khi chúng tôi đến, lượng du khách đổ về khá đông nên tầm nhìn đã hạn chế. Mặt bằng quảng trường được lát đá, bao bọc chung quanh là những cổ thành tráng lệ.
Ở đây, chúng tôi có cảm tưởng như cả một thiên đường kiến trúc hình thành nên một cảnh quan thường thấy trong những câu chuyện cổ tích. Còn khoảng gần một giờ nữa mới đến 12g nên chúng tôi có dịp tha thẩn trên các con đường "xưa thật là xưa" của một thành phố đầu tiên được UNESCO công nhận là Di sản của thế giới. Được biết, các danh xưng, "đô thành cổ tích", "trái tim của châu Âu" cũng được trân trọng dành cho thành phố này.
Đường phố cổ ở Praha.
Trên những con phố cổ Praha, nhiều con đường lát đá trở nên đen bóng theo năm tháng. Khác với ở Ý, ai cũng ít nhiều lo lắng về các tệ nạn, ở đây có phần yên tâm hơn về sự an toàn, trật tự, cho dù chung quanh phố cổ có nhiều cửa hàng, nhà hàng, dịch vụ du lịch kinh doanh. Nếp sống văn minh đô thị ở thành phố cổ đem lại ý thức chung cho hàng ngàn người tụ tập qua lại nhưng không quá ồn ào, không làm phiền người bên cạnh.
Tranh thủ vào một nhà hàng nhỏ cạnh khu trung tâm để ăn trưa trong khi chờ chợ giờ G sắp đến. Giá cả các món ăn ở các nhà hàng tại Praha không đắt mấy so với các nhà hàng mà chúng tôi đã ghé qua ở Thụy Sĩ hay ở Ý.
Đồng hồ thiên văn ở Praha.
Trở lại khu vực có cái đồng hồ huyền thoại, dòng người qua lại càng lúc càng đông. Chiếc đồng hồ rất to được treo cao ở bức tường phía Nam của Tòa Thị chính. Đây là một trong ba chiếc đồng hồ cổ nhất và là đồng hồ cơ duy nhất còn hoạt động.
Bên trên của hai mặt đồng hồ là một tượng bán thân thiên thần bằng đá, hai bên là hai ô cửa, trên cùng là một ô chữ nhật có chóp nhọn. Vành ngoài của đồng hồ màu đen, được khắc chữ số Gô-tích mạ vàng theo hệ thống Czech ngày xưa, phân chia một ngày thành 24 giờ bắt đầu vào lúc mặt trời lặn. Cứ mỗi vòng quay của chiếc vành này, giờ thứ 24 luôn luôn trùng với lúc mặt trời lặn, bất luận mùa nào.
Phần phía trên đồng hồ thiên văn.
Chữ số La Mã ngay bên trong vành ngoài chia ngày thành hai khoảng thời gian, mỗi khoảng 12 giờ, với giữa trưa ở bên trên và nửa đêm ở dưới. Các ngón của một bàn tay mạ vàng chỉ giờ. Ngoài ra, trên mặt đồng hồ thiên văn, chuyển động của một chiếc đĩa lớn mạ vàng cho thấy quỹ đạo của mặt trời, trong khi một quả cầu nhỏ cho thấy các tuần trăng. Chuyển động biểu kiến của bầu trời đầy sao xung quanh trái đất được biểu diễn bằng một vành lệch tâm, vành này nhỏ hơn và có ghi ký hiệu của các chòm sao.
Nằm cố định ở giữa mặt đồng hồ là trái đất, có cả các đường kinh tuyến, vĩ tuyến và các cực của nó. Trên mặt đồng hồ cũng có ba vòng tròn tượng trưng đường xích đạo, Bắc chí tuyến và Nam chí tuyến. Qua đó, mặt đồng hồ cho thấy vị trí tương đối của trái đất, mặt trăng, mặt trời và các ngôi sao trong suốt cả năm.
Phía bên dưới mặt đồng hồ thiên văn là lịch hình đĩa, trên đó có những tranh phong cảnh đồng quê tượng trưng mỗi tháng trong năm. Cái lịch hình đĩa cho biết ngày tháng, cứ mỗi ngày vào nửa đêm nó lại xoay thêm một nấc trong số 365 nấc, ngoại trừ một đêm trong năm nhuận.
Biểu tượng của Sự phù phiếm và Lòng tham lam.
Biểu tượng của Thần chết và Dục vọng thú vui.
Ở hai bên mặt đồng hồ là các biểu tượng được thể hiện bằng các bức tượng. Từ trái sang đầu tiên là bức tượng người đàn ông luôn nhìn vào tấm gương soi, biểu tượng cho sự phù phiếm của con người. Tiếp theo là người một chống gậy, tay cầm một túi vàng tượng trưng cho sự tham lam ích kỷ.
Bên kia là bộ xương đại diện cho thần chết, trên tay bộ xương là một chiếc đồng hồ cát như một biểu tượng đo lường tuổi thọ con người, tay kia rung chuông như nhắc nhở rằng số phận của mỗi người đều không thể tránh khỏi.
Cuối cùng là bức tượng một người Thổ Nhĩ Kỳ ôm đàn, đại diện cho dục vọng và thú vui trần thế. Người ta đặt tượng người Thổ vì bấy giờ, người Thổ là mối đe dọa cho cả châu Âu.
Phía dưới là các hình tượng của những chứng nhân như: nhà triết học, thiên thần, nhà thiên văn và nhà chép sử.
Hình tượng nhà Triết học, Thiên thần, nhà Thiên văn và nhà Chép sử.
Trong suốt 600 năm lịch sử, đồng hồ thiên văn trải qua nhiều lần hư hỏng và trùng tu, để ngày hôm nay, công trình trở thành một tuyệt tác của Praha; một địa điểm mà mỗi ngày thu hút không biết bao nhiêu là du khách.
Thời khắc chờ đợi cũng đã đến. Gần đến 12g, quảng trường tự nhiên yên lặng, nghi thức chuyển giờ bắt đầu. Mọi cặp mắt đều hướng lên hai cánh cửa sổ màu xanh nhạt trên ngọn tháp. Một con gà vàng xuất hiện vỗ cánh trên một khung ô có chóp nhọn, một hồi chuông giòn giã được cất lên, đồng thời hai cánh cửa hai bên từ từ mở ra.
Hình tượng các tông đồ của Chúa Christ từ từ xuất hiện. Đúng với những gì mà chúng tôi đã tìm hiểu, cảnh tượng diễn ra như một màn hoạt cảnh trên một nền sân khấu rất độc đáo:
Đi đầu là Thánh Pìerre tay cầm chiếc chìa khóa lớn; rồi lần lượt từng đôi một đi ngang qua hai khung cửa sổ, 12 hình tượng quay mặt ra ngoài, có vẻ như quan sát đám đông phía dưới. Cùng với cảnh diễu hành của các tông đồ là những hình ảnh cử động của các bức tượng bên dưới: Người soi gương gật đầu có vẻ tự mãn; người cầm túi vàng cũng gật gù như đang tính toán xong một điều gì. Bộ xương thì há cái miệng đầy răng rồi ngậm lại, mở ra, tay kéo dây chuông, đồng thời gật gật cái đầu hướng về phía người Thổ Nhĩ Kỳ đứng bên cạnh. Người Thổ lắc đầu, tỏ vẻ không đồng ý kết giao!
Hoạt cảnh chỉ diễn ra chừng 15 phút, và khi con gà vàng cất lên tiếng gáy thì vị tông đồ cuối cùng đã đi qua, hai ô cửa được đóng lại. Các bức tượng trở lại bất động.
Du khách xem thời khắc chuyển giờ.
Có nhiều truyền thuyết liên quan đến chiếc đồng hồ thiên văn độc đáo này. Một trong số đó nói rằng: một thợ cả tên là Hanus đã sáng tạo ra nó. Kiệt tác này đặc sắc đến nỗi chính quyền thành phố sợ rằng ông sẽ tạo ra những chiếc đồng hồ tương tự ở nơi khác, và như thế sẽ làm mất danh tiếng của thành phố Praha.
ể ngăn chặn việc này, họ mướn người hành hung và đâm mù mắt người thợ này. Kết cục của truyền thuyết nói rằng khi sắp chết, Hanus đã với tay vào trong các bánh răng cưa của đồng hồ để phá hủy nó.
Trong nhiều năm, các chuyên gia tin rằng chính người thợ cả Hanus đã làm ra chiếc đồng hồ thiên văn. Tuy nhiên, công cuộc nghiên cứu gần đây cho thấy ông Mikulas thuộc Kadaa mới là người sáng tạo nên chiếc đồng hồ vào năm 1410. Thợ cả Hanus chỉ là người tái thiết nó vào năm 1490.
Kể từ thế kỷ XVI, cỗ máy này đã được sửa chữa và tái thiết nhiều lần. Tuy nhiên, kể từ khi được tái thiết vào năm 1865 trở về sau, hầu hết các bộ phận cơ bản của nó vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay.
Vào cuối Thế chiến II (1945), quân Đức đã phóng hỏa đốt Tòa Thị chính khi họ rút lui khỏi thành phố Praha. Chiếc đồng hồ bị hư hại nặng. Sau chiến tranh, chính quyền mới phân vân giữa hai đề án: khôi phục chiếc đồng hồ, làm nó trở lại nguyên dạng; hoặc thiết kế lại để đồng hồ mới mang ý nghĩa tượng trưng hoàn toàn khác hẳn.
Ở Praha thời đó, đối với nhà cầm quyền thời hậu chiến, hình ảnh của các tông đồ trong đạo Thiên Chúa không được ưa chuộng. Tuy nhiên, ý kiến phục hồi nguyên trạng cũng được thực thi. Công trình phục dựng được giao cho nhóm 3 người thợ giỏi về việc chế tạo đồng hồ trong cả nước.
Tác giả trên khu phố cổ.
Không chỉ là biểu tượng của kiến trúc, đồng hồ thiên văn ở đây còn là minh chứng cho sức mạnh trí óc tuyệt vời của con người từ thời Trung cổ. Những ý tưởng nhân văn được thể hiện một cách đơn giản nhưng bao hàm nhiều ý nghĩa về đời, về đạo. Đã bao nhiêu năm qua, cứ mỗi giờ, 12 vị Thánh tông đồ xuất hiện một lần như là sự cầu nguyện cho con người. Hình ảnh ngộ nghĩnh của chú gà vàng, của sự phù phiếm, người tham lam, thần chết và anh chàng Thổ Nhĩ Kỳ hung hăng đã hình thành nên một tuyệt tác rất sinh động mà qua bao năm tháng, nó vẫn còn tồn tại.
Nhà triết học Friedrich Nietzsche (1879-1888) đã từng gọi Praha là thành phố của bí ẩn. Không biết triết gia gọi bí ẩn về điều gì, nhưng theo chúng tôi, ngoài cái bí ẩn ẩn chứa ở tòa lâu đài Praha tráng lệ tọa lạc trên đỉnh đồi trông ra vịnh Vltava xinh đẹp; bí ẩn trên chiếc cầu Charles với 30 bức tượng thánh độc đáo, mà sự bí ẩn đó còn hiển hiện trên chiếc đồng hồ thiên văn được tạo nên cách đây hơn 6 thế kỷ...
Pháp bắt đầu phục hồi chiếc đàn organ ống của Nhà thờ Đức Bà Ngày 3/8, các công nhân đã bắt đầu tháo dỡ chiếc đàn organ ống của Nhà thờ Đức Bà (Notre-Dame) ở thủ đô Paris (Pháp) để các chuyên gia kịp khôi phục vào tháng 4/2024 - 5 năm sau vụ hỏa hoạn làm sập ngọn tháp và thiêu rụi một phần mái của di tích lịch sử này. Chiến đàn organ ống tại...