Phương pháp giúp Mỹ phát hiện sớm các biến thể mới của virus SARS-CoV-2
Theo một nghiên cứu được đăng tải trên chuyên trang y khoa medRxiv, các nhà nghiên cứu tại hãng công nghệ sinh học Ginkgo Bioworks của Mỹ đã triển khai một chương trình giám sát nhằm phát hiện virus SARS-CoV-2 và các biến thể của chủng virus này ở những du khách nhập cảnh vào Mỹ.
Một điểm xét nghiệm COVID-19 tại New York, Mỹ. Ảnh: AFP/TTXVN
Nhóm nghiên cứu đã giám sát du khách đến sân bay John F. Kennedy ở New York hoặc sân bay San Francisco trên 7 chuyến bay trực tiếp khởi hành từ Ấn Độ trong khoảng hai tháng từ ngày 29/9-2/11/2021. Ngoài ra, hoạt động giám sát còn được thực hiện bổ sung đối với hành khách nhập cảnh tại sân bay quốc tế Hartsfield-Jackson Atlanta từ ngày 28/11/2021 đến ngày 23/1/2022. Các du khách này khởi hành từ Nam Phi, Nigeria, Anh, Pháp, Đức và Brazil trên khoảng 50 chuyến bay cất cánh từ các quốc gia này đến Atlanta mỗi ngày.
Trong khuôn khổ chương trình giám sát khách quốc tế đến Mỹ, các chuyên gia cũng tiến hành thu thập mẫu gộp và các mẫu bệnh phẩm riêng lẻ tại sân bay để phát hiện các biến thể đáng quan ngại của virus SARS-CoV-2 từ ngày 29/9/2021 đến 23/1/2022. Mẫu bệnh phẩm gồm nước bọt và dịch mũi được lấy đúng quy trình y tế từ 3-5 ngày sau khi hành khách nhập cảnh. Các phương pháp được thực hiện bao gồm xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase phiên mã ngược (RT-PCR) của tất cả các mẫu bệnh phẩm trong vòng 24-48 giờ sau khi lấy mẫu và giải trình tự toàn bộ bộ gene của tất cả các mẫu dương tính trong trung bình 11 ngày.
Với việc đáp ứng các tiêu chí từ 18 tuổi trở lên và chấp thuận cho phép lấy mẫu cũng như trả lời đầy đủ các câu hỏi về nhân khẩu học, lâm sàng và lịch sử đi lại, có khoảng 16.000 người đăng ký tham gia nghiên cứu.
Nhóm nghiên cứu đã đánh giá sự khác biệt về tỷ lệ mẫu bệnh phẩm dương tính được tổng hợp trong hai giai đoạn thu thập khác nhau và dựa theo từng quốc gia – nơi các hành khách khởi hành. Theo đó, trong tổng số 1.454 mẫu bệnh phẩm thu thập được, có 221 mẫu có kết quả dương tính với virus SARS-CoV-2. Mức độ dương tính tăng lên theo thời gian, từ 1,8% trong giai đoạn từ tháng 9-11 năm ngoái lên 20,9% sau ngày 27/11 cùng năm. Tỷ lệ dương tính của các mẫu gộp dựa trên quốc gia mà hành khách đó khởi hành cũng khác nhau đáng kể. Cụ thể, tỷ lệ mẫu bệnh phẩm dương tính của du khách từ Nam Phi vào khoảng 43,5%, từ Ấn Độ là khoảng 9,3%.
Các biến thể của virus SARS-CoV-2 được phát hiện cũng thay đổi theo thời gian. Cụ thể, tất cả các dòng biến thể phụ của biến thể Delta được phát hiện trước ngày 28/11/2021, khác với một dòng biến thể phụ khác chưa được xác định. Qua so sánh, từ ngày 28/11/2021 đến tháng 1/2022, chỉ có 5% mẫu bệnh phẩm liên quan đến biến thể Delta, trong khi 27% không xác định được do số mẫu bệnh phẩm ở mức thấp và tất cả các mẫu còn lại đều liên quan đến biến thể Omicron.
Trong số 145 trình tự gene Omicron đã được xác định, ghi nhận tới 112 trình tự gene mục tiêu đột biến hoàn toàn hoặc đột biến một phần không được phát hiện (SGTF). Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu không quan sát thấy trình tự này trong các dòng phụ BA.2 của Omicron. Phần lớn các dòng phụ của Omicron được ghi nhận trong nghiên cứu này là BA.1, bên cạnh một số dòng phục khác gồm BA1.1, BA.2, BA.3, BA.2 Orf1a: M85 và BA.2 S: R346K.
Chương trình giám sát nói trên đã xác định thành công các biến thể mới của virus SARS-CoV-2 trên các hành khách nhập cảnh vào Mỹ, trong đó có hai dòng phụ của biến thể Omicron trước khi chúng được ghi nhận tại một số địa phương ở Mỹ. Đúng như các nhà nghiên cứu dự đoán, số lượng xét nghiệm dương tính đã tăng lên đáng kể sau sự xuất hiện của Omicron. Một điều trùng khớp đó là số lượng các xét nghiệm dương tính cũng tăng lên sau ngày 6/12/2021, khi hành khách được yêu cầu phải có kết quả xét nghiệm âm tính với COVID-19 trước khi khởi hành. Điều này có thể là do độ nhạy trong quá trình xét nghiệm chưa cao hoặc hành khách đi trên các chuyến bay đường dài đặc biệt bị nhiễm bệnh trong quá trình di chuyển. Cũng có thể một số du khách đã trình kết quả xét nghiệm gian lận để được bay.
Thông qua chương trình trên, nhóm nghiên cứu nhấn mạnh khả năng họ sẽ mở rộng quy mô của chương trình sàng lọc này, đồng thời khuyến nghị áp dụng một phương pháp tương tự trong tương lai, qua đó giúp phát hiện nhanh hơn các biến thể mới của virus SARS-CoV-2 mới. Ngoài ra, họ cho rằng cách tiếp cận của nghiên cứu này cho phép kích hoạt các hệ thống cảnh báo sớm, như ban hành hạn chế đi lại trong trường hợp có một số lượng lớn các ca mắc COVID-19 được xác định trên các hành khách đến từ những quốc gia cụ thể.
Trong giai đoạn đầu của đại dịch COVID-19, một số quốc gia như Singapore, New Zealand cũng đã kiểm soát dịch tương đối hiệu quả khi áp dụng các biện pháp phù hợp, trong đó có việc triển khai các chương trình giám sát dịch từ rất sớm. Do vậy, việc áp dụng rộng rãi hơn cách tiếp cận này có thể giúp hạn chế số ca bệnh ở mức thấp hơn khi xảy ra các đại dịch tiềm tàng trong tương lai.
Video đang HOT
Các nhà khoa học thế giới dự đoán thời điểm kết thúc đại dịch Covid-19
Các nhà khoa học trên thế giới đã đưa ra nhận định về kịch bản kết thúc đại dịch Covid-19, trong bối cảnh nhiều quốc gia đã dỡ bỏ các biện pháp phòng dịch và đẩy mạnh tiêm chủng vaccine.
Người dân đeo khẩu trang trên đường phố Singapore (Ảnh: Business Times).
Hãng tin Reuters đã tiến hành phỏng vấn hơn 10 chuyên gia hàng đầu về dịch bệnh và cho biết, khi làn sóng lây nhiễm do biến chủng Delta đang hạ nhiệt ở nhiều khu vực trên thế giới, các nhà khoa học vẫn đang xem xét khả năng dịch Covid-19 sẽ trở thành bệnh đặc hữu vào năm 2022.
Các nhà khoa học dự đoán rằng, những quốc gia đầu tiên thoát khỏi đại dịch sẽ là những nơi có sự kết hợp giữa tỷ lệ tiêm chủng cao và khả năng miễn dịch tự nhiên ở những người đã mắc Covid-19 và khỏi bệnh như ở Mỹ, Anh, Bồ Đào Nha và Ấn Độ. Tuy nhiên, họ cũng cảnh báo rằng SARS-CoV-2 vẫn là một loại virus khó lường và đang tiếp tục đột biến khi lây lan qua các cộng đồng dân cư chưa được tiêm chủng.
Không ai có thể loại trừ hoàn toàn khả năng virus đột biến đến mức có thể né tránh được miễn dịch cộng đồng. Tuy nhiên, các nhà khoa học ngày càng tin tưởng rằng, vào năm tới, nhiều quốc gia sẽ bỏ lại những điều tồi tệ nhất của đại dịch Covid-19 ở phía sau.
"Chúng tôi cho rằng từ nay đến cuối năm 2022 là thời điểm mà chúng ta có thể kiểm soát được loại virus này, khi chúng ta có thể giảm thiểu đáng kể các ca bệnh nặng và tử vong", Maria Van Kerkhove, nhà dịch tễ học đứng đầu nhóm ứng phó với Covid-19 của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), nói.
Quan điểm của WHO dựa trên kết quả làm việc với các chuyên gia về dịch bệnh, những người đang dự báo diễn biến có thể xảy ra của đại dịch trong 18 tháng tới. WHO đặt mục tiêu 70% dân số thế giới được tiêm chủng vào cuối năm 2022.
"Nếu chúng ta đạt được mục tiêu đó, chúng ta sẽ ở trong một tình huống rất khác về mặt dịch tễ học", bà Van Kerkhove nói.
Tuy nhiên, nhà khoa học WHO lo lắng về việc các quốc gia sớm dỡ bỏ các biện pháp phòng ngừa Covid-19.
"Tôi ngạc nhiên khi thấy mọi người đi lại trên đường phố, như thể mọi thứ đã kết thúc", bà Van Kerkhove nói thêm.
Theo báo cáo của WHO vào ngày 26/10, từ tháng 8, các ca nhiễm và tử vong vì Covid-19 đã giảm xuống ở hầu hết khu vực trên thế giới.
Tuy vậy, châu Âu dường như là ngoại lệ, khi biến chủng Delta đang gây ra làn sóng dịch bệnh mới ở các quốc gia có tỷ lệ tiêm chủng thấp như Nga và Romania, cũng như những nơi đã dỡ bỏ yêu cầu đeo khẩu trang.
Bệnh viện điều trị bệnh nhân Covid-19 ở Nga (Ảnh: Reuters).
Biến chủng Delta cũng góp phần làm gia tăng số ca nhiễm ở các quốc gia như Singapore và Trung Quốc, những nơi có tỷ lệ tiêm chủng cao nhưng ít có khả năng miễn dịch tự nhiên do áp dụng các biện pháp ngăn chặn nghiêm ngặt.
"Quá trình chuyển đổi sẽ khác nhau ở từng nơi vì nó sẽ được thúc đẩy bởi miễn dịch trong nhóm dân số đã khỏi bệnh và tất nhiên, bởi việc phân phối vaccine, vốn thay đổi giữa các khu vực", Marc Lipsitch, nhà dịch tễ học tại Trường Y tế Công cộng Harvard TH Chan, cho biết.
Một số chuyên gia dự đoán, làn sóng lây nhiễm do biến chủng Delta tại Mỹ sẽ kết thúc trong tháng 11 này và có thể là đợt bùng phát Covid-19 lớn cuối cùng.
"Chúng tôi đang chuyển đổi từ giai đoạn đại dịch sang giai đoạn bệnh đặc hữu, nơi loại virus này trở thành mối đe dọa dai dẳng ở Mỹ", cựu Ủy viên Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ Scott Gottlieb cho biết.
Chris Murray, nhà dự báo dịch bệnh hàng đầu tại Đại học Washington, cũng dự báo làn sóng gia tăng lây nhiễm do biến chủng Delta ở Mỹ sẽ kết thúc vào tháng 11.
"Chúng ta sẽ chuyển sang mức tăng số ca mắc Covid-19 rất khiêm tốn vào mùa đông. Nếu không có biến chủng mới nghiêm trọng nào, Covid-19 sẽ thực sự kết thúc dần vào tháng 4 (năm 2022)", ông Murray nhận định.
Ngay cả khi các ca nhiễm đang tăng đột biến do các quốc gia dỡ bỏ các hạn chế chống dịch như ở Anh, vaccine dường như đã ngăn chặn số ca nhập viện. Nhà dịch tễ học Neil Ferguson tại Đại học Hoàng gia London nói rằng, đối với Anh, "tình trạng khẩn cấp của đại dịch đang ở phía sau chúng ta".
Trở thành bệnh đặc hữu?
Covid-19 được dự báo sẽ vẫn là nguyên nhân chính gây ra các ca bệnh và tử vong trong nhiều năm tới, giống như các bệnh đặc hữu khác như sốt rét.
"Đặc hữu không có nghĩa là lành tính", bà Van Kerkhove nói.
Một số chuyên gia nói rằng virus SARS-CoV-2 cuối cùng sẽ tồn tại giống như bệnh sởi, căn bệnh vẫn bùng phát ở những cộng đồng dân cư có tỷ lệ tiêm chủng thấp. Những người khác cho rằng Covid-19 ngày càng trở thành một bệnh hô hấp theo mùa như cúm.
Nhà dịch tễ học Ferguson dự đoán số ca tử vong vì bệnh hô hấp do Covid-19 sẽ ở trên mức trung bình tại Anh trong vòng 2-5 năm tới, nhưng căn bệnh này sẽ không có khả năng gây sức ép với hệ thống y tế hoặc đòi hỏi thiết lập lại giãn cách xã hội.
"Đó sẽ là một sự tiến hóa dần dần. Chúng ta sẽ đối phó với nó như một loại virus dai dẳng hơn", ông Ferguson nói.
Trevor Bedford, nhà virus học tại Trung tâm Ung thư Fred Hutchinson, người đã theo dõi sự tiến hóa của SARS-CoV-2, nhận thấy một làn sóng dịch bệnh nhẹ hơn vào mùa đông ở Mỹ, sau đó là sự chuyển đổi sang bệnh đặc hữu vào năm 2022-2023. Ông dự đoán Mỹ sẽ có 50.000-100.000 ca tử vong do Covid-19 mỗi năm, lớn hơn con số ước tính 30.000 ca tử vong hàng năm do cúm.
Bedford cho biết, virus có thể sẽ tiếp tục đột biến, đòi hỏi phải tiêm phòng vaccine hàng năm để đối phó với các biến chủng mới nhất.
Nếu kịch bản Covid-19 bùng phát theo mùa xảy ra, trong đó virus SARS-CoV-2 lây lan song song với bệnh cúm, cả chuyên gia Gottlieb và Murray đều cho rằng điều đó sẽ có tác động đáng kể đến hệ thống chăm sóc sức khỏe.
"Đó sẽ là một vấn đề đặt ra đối với các nhà hoạch định chính sách y tế, chẳng hạn cách đối phó với Covid-19 và dịch cúm bùng phát vào mùa đông", Murray cho biết.
Richard Hatchett, giám đốc điều hành của Liên minh Đổi mới sáng tạo chuẩn bị sẵn sàng Dịch bệnh, cho biết một số quốc gia được bảo vệ tốt bởi vaccine trong khi những quốc gia khác hầu như không có vaccine, do vậy thế giới vẫn dễ bị tổn thương.
Tiến sĩ Bruce Aylward, lãnh đạo cấp cao của WHO, hồi tháng 10 cho biết đại dịch Covid-19 sẽ tiếp tục kéo dài đến năm 2022 do các nước nghèo không nhận được số vaccine cần thiết.
Tiến sĩ Anthony Fauci, nhà dịch tễ học hàng đầu nước Mỹ, cho rằng thế giới có thể bắt đầu kiểm soát được đại dịch Covid-19 vào mùa xuân tới, trong khi Giám đốc điều hành của hãng dược Moderna và Pfizer nhận định đại dịch có thể kết thúc sau một năm nữa.
Mỹ bắt đầu tiêm chủng cho trẻ em 5-11 tuổi Mỹ ngày 3/11 đã bắt đầu chiến dịch tiêm chủng vaccine Covid-19 của Pfizer-BioNTech cho nhóm 5-11 tuổi, sau khi việc này được Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC) phê chuẩn. Tối ngày 2/11, Giám đốc Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC) Rochelle Walensky chính thức khuyến nghị tiêm vaccine Covid-19 của Pfizer-BioNTech...