Phơi bày sự thật kinh hoàng gây hàng nghìn cái chết bí ẩn kỳ 2
Trong đêm 2/12/1943, tính sơ bộ đã có hơn 1000 binh sĩ và thủy thủ thiệt mạng, hơn 800 người khác bị thương nặng, còn thường dân Bari, theo tính toán không đầy đủ ít nhất cũng hơn 1000 người chết.
Thời điểm xảy ra vụ không kích, trong cảng Bari có khoảng 30 tàu vận tải Mỹ, Anh, Ba Lan, Na Uy, Đan Mạch… đang chờ bốc dỡ hàng, trong số đó có chiếc tàu hàng John Harvey của Mỹ, thuyền trưởng tên là Erwin Knowles. Nhìn bề ngoài John Harvey chẳng có điểm gì khác biệt với các tàu vận tải khác, hàng hóa cũng là các loại thông dụng trong thời chiến như: lương thực, vũ khí, trang bị. Không ai ngờ rằng, trên tàu còn có một loạt hàng hóa đặc biệt gồm 2000 quả bom được che chắn cẩn thận. Nhìn bề ngoài chúng cũng giống như vô vàn quả bom khác, nhưng trong ruột nó chứa đầy một chất độc hóa học dạng chất lỏng hóa hơi là khí Mù – Tạt (Mustard).
Khí Mustard, tên khoa học Dichlorodiethyl Sulfide là một chất lỏng nhờn không màu hoặc có màu hơi vàng, ngửi có mùi giống như cải đắng hoặc mùi củ hành, củ tỏi. Nó là một chất độc hoại tử rất đáng sợ, có thể làm mục nát hệ thống hô hấp, thối nát da thịt, người bị hại sẽ chết trong đau đớn. Trong thế chiến thứ nhất, các bên tham chiến đã từng sử dụng vũ khí hóa học, trong đó có chất khí này, gây ra thương vong cho hơn 1,3 triệu người, bao gồm một hạ sĩ của Đức tên là Adolf Hitler.
Sau khi Đức liên tiếp bại trận ở Stalingrad, sau đó là Bắc Phi, quân đồng minh đổ bộ lên châu Âu, tiến thẳng đến Roma. Khi nhận được tin tình báo cho biết quân Đức tàng trữ rất nhiều khí độc Tabun, đồng minh nhận định một kẻ tàn nhẫn như Hitler hoàn toàn có thể sử dụng vũ khí hóa học để vãn hồi cục diện thất bại. Vì vậy, tháng 8 năm 1943, Tổng thống Mỹ Roosevelt đã phê duyệt một lô bom hóa học đến khu vực Địa Trung Hải để chuẩn bị cho tình huống trả đũa.
Ngày 18/11/1943, John Harvey khởi hành từ cảng Oran, Algeria thẳng tiến đến Italia. Trên tàu cất giấu 2000 quả bom M47A1 có chiều dài 1,2m, đường kính 20,3cm, trong ruột chứa từ 27-32 kg chất lỏng Mustard. Để tuyệt đối bí mật, trên tàu chỉ có thuyền trưởng Erwin Knowles và người phụ trách an toàn của tàu là trung úy Thomas Richardson cùng với thiếu úy Howard Baker, chỉ huy nhóm 6 quân nhân của đại đội phòng hóa 701 là biết nhiệm vụ thực sự của chuyến đi này. Ngày 26/11/1943, John Harvey cập cảng Bari, khởi đầu tai ương cho binh lính và người dân bản xứ nơi đây.
Khí độc Mustard là nguyên nhân gây ra nhiều cái chết thảm thương
Thảm họa khủng khiếp
Sau khi cập cảng, vì không thể tiết lộ bí mật về chuyến hàng nên John Harvey đành phải thả neo chờ 6 ngày tại ụ tàu số 5 đợi đến lượt bốc dỡ hàng như các tàu khác. Khi quân Đức tấn công, mặc dù không trúng quả bom nào nhưng lửa từ mảnh vỡ của các con tàu khác và từ lớp dầu tràn trên mặt biển đã khiến bom trên tàu phát nổ. Một phần chất độc bắn xuống nước trộn lẫn với dầu tràn bao phủ toàn bộ cảng, phần còn lại bị đốt cháy bay hơi tan trong không khí, những thủy thủ nhảy xuống nước bơi vào bờ là những người đầu tiên bị trúng độc trên da và đường hô hấp. Những thủy thủ còn sống sót và nhân dân thành phố Bari không biết rằng, thảm họa thực sự vẫn còn đợi họ ở phía trước.
Hàng ngàn người bị thương chủ yếu được chuyển đến bệnh viện đa khoa 98 của Anh và bệnh viện số 3 New Zealand, đều nằm cùng địa điểm với bệnh viên đa khoa Bari. Một số bệnh nhân có các triệu chứng lâm sàng như: đau và chảy nước mắt, sợ ánh sáng. Các y bác sĩ điều trị đã không nhận ra triệu chứng ngộ độc khí Mustard mà chỉ cho là họ bị đau mắt hột nên đã chữa trị theo phác đồ điều trị thông thường. Sau đó những bệnh nhân “đau mắt hột” này phát sinh các triệu chứng sưng mắt, mí mắt co rút, loét giác mạc. Một vài giờ sau, trên da nạn nhân xuất hiện các vết phồng rộp, chuyển thành ban đỏ rồi tiếp tục chuyển sang màu tím và nổi lên các bọng nước, rỉ ra mủ màu vàng.
Video đang HOT
Các nhân viên y tế vẫn để cho người bệnh mặc quần áo dính hỗn hợp chất độc và dầu mỡ, càng làm các bệnh nhân nhiễm độc nặng hơn, các vết loét nhanh chóng bị thối rữa. Các bệnh nhân trên da bị lở loét đã bắt đầu ho khạc dữ dội, nhổ ra nhiều đờm dãi và thở khò khè. Các biểu hiện này chứng tỏ, khí Mustard đã bắt đầu tàn phá hệ thống hô hấp của họ. Thế nhưng các nhân viên y tế vẫn không nhận ra các triệu chứng ngộ độc khí Mustard, mà cho là một căn bệnh lạ chưa từng biết đến và vô phương cứu chữa. Bước sang ngày thứ 2, bệnh nhân đã có người bị tử vong, các biểu hiện lâm chung cho thấy nạn nhân bị dày vò cả về tinh thần lẫn thể chất: đau đớn cùng cực, mất thị giác, cơ quan sinh dục sưng to và bỏng rát… Những người tử vong không chỉ có binh lính và thủy thủ Anh, Mỹ mà còn có hàng ngàn thường dân Bari với các triệu chứng giống nhau.
Máy bay ném bom của không quân phát xít Đức
Các binh lính và thủ thủ may mắn hơn khi họ được đưa ngay vào bệnh viện quân y. Trong 2 tuần sau vụ không kích chỉ có 69 người thiệt mạng trong tổng số 628 người nhiễm độc khí Mustard, còn dân thường thì thê thảm hơn rất nhiều. Sau vụ không kích đa số họ chạy loạn khỏi thành phố Bari, số ít người được đưa đến bệnh viện, còn lại đa số chết trên tại nhà, trên đường cấp cứu, trên đường chạy loạn. Theo tính toán không đầy đủ đã có hơn 1000 người chết do nhiễm độc khí Mustard.
Sự thật không thể che giấu
Sau khi các bệnh nhân bị tử vong hàng loạt, cuối cùng các bác sĩ cũng nhận ra nguyên nhân căn bệnh là do nhiễm một loại chất độc hóa học nào đó, nhưng họ cho rằng đó là do quân Đức thả xuống. Thông tin này nhanh chóng được điện báo chi tiết về Bộ Thống soái tối cao của quân đồng minh tại Algiers, chuyên gia chất độc hóa học – trung tá Stewart Francis Alexander được phái xuống để xác định nguyên nhân của “căn bệnh thần bí”.
Ông nhanh chóng xác định được đó là khí độc Mustard và khẩn trương bắt tay vào điều tra loại vũ khí đã chứa nó. Kết quả trục vớt và kiểm định các mảnh vỡ bom đạn dưới đáy vịnh đã phơi bày một sự thật kinh hoàng: vật mang chất độc hóa học chính là loại bom M47A1 của Mỹ chứ không phải bom của quân Đức. Tiếp tục khám nghiệm tử thi những người chết trên các con tàu đắm và khu vực tập trung nhiều mảnh vỡ của loại bom này, trung tá Alexander đã khẳng định John Harvey chính là con tàu chở đầy chết chóc. Báo cáo chi tiết được ông khẩn trương soạn thảo và gửi về Tổng tư lệnh tối cao của quân đồng minh là tướng Eisenhower và nhanh chóng nằm trên bàn làm việc của nhà lãnh đạo 2 nước Anh, Mỹ.
Thủ tướng Anh Winston Churchill cho rằng, nếu để lộ thông tin ra ngoài sẽ gây sự nghi ngờ của quân Đức về mục đích Mỹ vận chuyển chất độc hóa học, hơn nữa lại tổn hại đến hình ảnh của quân Anh và gây ra sự phẫn nộ cho người dân Mỹ, Anh, Ý nên đã ra lệnh xóa toàn bộ các nhật ký điều trị có đề cập đến khí Mustard và kết luận nguyên nhân tử vong là “chết vì bỏng”. Ngoài ra ông ta còn cố gắng che giấu sự thật về con số thương vong của sau không kích nhưng do số người chết và bị thương quá nhiều, đặc biệt là do số dân thường Bari điều trị tại các cơ sở bên ngoài nên sự việc không thể ém nhẹm được. Không lâu sau, bình luận viên nổi tiếng của Đức là Kayseri đã giễu cợt quân đồng minh trên sóng phát thanh Đức: “Họ đã bị hại vì bom đạn của chính mình!”.
Theo Vietbao
Kinh hoàng chiến dịch không kích "chặt đứt yết hầu"
Với kế hoạch trinh sát kỹ lưỡng và chiến thuật ném bom thuần thục, không quân Đức oanh tạc dữ dội nhóm tàu chở nhiên liệu và vũ khí, khiến cảng Bari bị nhấn chìm trong một biển lửa và những tiếng nổ kinh hoàng...
Chiều 2/12/1943, một chiếc máy bay trinh sát Me-120 của không quân Đức đột ngột xuất hiện trên bầu trời thành phố cảng Bari trước sự thờ ơ của lực lượng phòng không Anh đang trấn thủ tại đây. Sau khi lượn 2 vòng, nó tăng độ cao lên 7000m rồi chuyển hướng, mất hút về phía bắc.
Thành phố cảng Bari - căn cứ hậu cần của quân đồng minh
Thành phố Bari, thuộc khu vực Apulia nằm ven bờ biển Adriatic, trông giống như một nắm tay nhô ra biển Caspian, là một thành phố cảng quan trọng ở miền nam Italia. Từ thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, Bari đã trở thành một trung tâm vận tải và là đầu mối giao thông nối nội địa với các khu vực ven biển và thông thương với phương Đông. Vì vậy, trong mọi thời kỳ, Bari luôn là một trọng điểm về mặt quân sự.
Từ đầu chiến tranh, quân Đồng minh đã sử dụng Bari làm căn cứ hậu cần cho tập đoàn quân số 8 do tướng Montgomery chỉ huy đóng quân tại Anh, vì thế công tác quản lý và bảo vệ cảng đều do quân Anh đảm nhiệm. Ngày 1/12/1943, quân đội Mỹ quyết định bổ sung bằng đường biển khoảng 200 sĩ quan, 52 công trình sư, vài trăm binh lính và khối lượng rất lớn nhiên liệu, đạn dược máy bay cho tập đoàn quân không quân (TĐQ KQ) số 15 đóng quân tại Foggia, cách Bari 70km. Vì vậy, số lượng tàu bè đến cảng Bari đã tăng lên đột biến. Tại thời điểm đó, mặc dù quân Đức vẫn còn chiếm đóng miền bắc Ý, bao gồm cả thủ đô Roma nhưng dưới sự tiến công dữ dội của quân đồng minh, chế độ Mussolini đã sụp đổ, chính phủ mới ở miền Nam đã gia nhập phe đồng minh. Áp lực dưới khối lượng công việc cực lớn vả cả sự chủ quan đã khiến cho quân Anh lơ là công tác bảo vệ cảng, đặc biệt là về phòng không. Họ không hề biết rằng, trung úy phi công Werner Hahn đang thực hiện một sứ mệnh cực kỳ quan trọng do thống chế Wolfram von Richthofen - lúc đó chỉ huy TĐQ KQ số 2 của Đức giao cho là trinh sát và đưa ra kết luận cuối cùng về khả năng thực hiện một cuộc không kích quy mô lớn vào cảng Bari.
Cảng Bari từng là căn cứ hậu cần của quân đồng minh
Cuộc tập kích bất ngờ
Cuối tháng 11/1943, không quân Đức cũng đã nhiều lần cho máy bay thám thính cảng Bari, nắm chắc sơ đồ bố trí lực lượng phòng không và tình hình tàu chiến, tàu dân sự neo đậu tại đây. Được sự cố vấn của thống chế Wolfram von Richthofen, thống chế Albert Kesselring, chỉ huy nhóm tập đoàn quân phía Nam của Đức nhận ra rằng, tấn công cảng Bari sẽ làm suy giảm thế tiến công của tập đoàn quân số 8 và kéo dài thời gian chuẩn bị đợt oanh tạc mới của tập đoàn quân không quân 15 của quân đội Mỹ nên ông ta đã quyết định thay đổi mục tiêu ban đầu là Foggia, chuyển sang mở cuộc tập kích đường không quy mô lớn vào cảng Bari nhằm làm chậm bước tiến của quân Đồng minh ở Ý.
Chập tối 2/12/1943, 105 chiếc Ju88A-4 trong tổng số 150 máy bay còn lại của TĐQ KQ số 2 được lệnh xuất kích. Để nghi binh, Richthofen hạ lệnh cho 25 chiếc bay về hướng Nam Tư để đánh lạc hướng là họ định tiến công các mục tiêu ở khu vực Balkans. 80 chiếc còn lại cất cánh về hướng Đông, mục đích là để quân đồng minh nhầm tưởng họ tiến hành không kích các mục tiêu ở hướng Bắc, sau khi bay qua biển Adriatic, tốp này mới chuyển hướng bay về phía Nam, đoạn cuối hành trình mới rẽ sang hướng Tây, khi đến gần cảng Bari, các máy bay hạ thấp độ cao sát mặt nước biển, tránh sự phát hiện của radar. Trên thân và cánh máy bay được dát một lớp sợi giấy thiếc mỏng với độ dài khác nhau có tác dụng phá sóng radar rất tốt.
19h25', tốp máy bay dẫn đường của quân Đức đã tiếp cận cảng Bari. Lúc đó hoạt động trên cảng vẫn còn rất nhộn nhịp, những chiếc cần cẩu vẫn hối hả bốc hàng ở khu vực cầu cảng phía Đông đang chật kín tàu thả neo.
19h30', chiếc máy bay dẫn đầu đầu đột ngột tăng tốc, nâng độ cao lên tầm 3000m, một mặt nó lượn vòng để phóng ra muôn vạn sợi dây nhôm để gây nhiều radar, mặt khác thả xuống đủ loại pháo sáng để hiệu chuẩn mục tiêu cho tốp máy bay phía sau tiến công.
Tốp máy bay ném bom Đức trước tiên không kích khu vực nội thành Bari, làm toàn thành phố chìm trong biển khói lửa mù mịt, rồi tiếp tục tấn công mục tiêu chủ yếu là khu vực cảng khẩu. Với kế hoạch trinh sát kỹ lưỡng và chiến thuật ném bom thuần thục, đầu tiên không quân Đức oanh tạc dữ dội nhóm tàu chở nhiên liệu và vũ khí, trang bị làm cho bom đạn và nhiên liệu trên các tàu này nổ tung, bốc cháy dữ dội bén sang các tàu hàng khác. Trong chớp mắt, cảng Bari bị nhấn chìm trong một biển lửa và những tiếng nổ kinh hoàng.
"Thành công vang dội" cho quân Đức
Cuộc không kích diễn ra vẻn vẹn trong vòng 20', không quân Đức bị thiệt hại rất nhỏ nhưng đã đạt được thành công rất lớn: 17 tàu chiến đồng minh đã bị đánh chìm, 8 chiếc khác bị hư hỏng nặng. Mỹ bị thiệt hại lớn nhất, 5 tàu của họ bị phá hủy hoàn toàn bao gồm: John Bascom, John Motley, Joseph Wheeler, Samuel Tilden và John Harvey Anh bị đắm 4 tàu Na Uy, Italia, Ba Lan mỗi nước mất 3 tàu ngoài ra tàu khu trục Bicester của quân đồng minh tham gia cứu hộ những người rơi xuống nước cũng phải quay về cảng Toronto tu sửa.
Bìa trang tạp chí về sự kiện quân Đức tấn công cảng Bari
Cuộc không kích của Đức đã phá hủy hoàn toàn cảng Bari, làm nó phải đóng cửa 3 tuần, dẫn đến một loạt các hệ lụy xấu cho quân đồng minh.
Đầu tiên là vào ngày 12/1/1944, tướng Mark Clark - tư lệnh tập đoàn quân 15 mở một cuộc tiến công quy mô lớn là một phần của kế hoạch tác chiến đổ bộ lên Anzio của liên quân Anh - Mỹ. Trong quá trình tác chiến, một bộ phận của tập đoàn quân này đã vượt được qua sông Lapido và xây dựng thành công cứ điểm đầu cầu, nhưng chỉ vài ngày sau bộ phận này đã phải rút lui vì thiếu tiếp tế. Trong nhật ký chiến trường của chỉ huy quân Mỹ có đưa ra lí do không cung ứng kịp thời là do khí hậu khắc nghiệt nhưng trên thực tế, nguyên nhân cơ bản là do cảng Bari bị đóng cửa.
Ngoài ra, không quân Đức cũng phá hủy một căn cứ của TĐQ KQ 15 Mỹ ở gần thành phố Bari. Theo kế hoạch ban đầu, 2 TĐQ KQ số 8 và 15 sẽ phối hợp ném bom nhưng cuộc tập kích cảng Bari đã cắt đứt nguồn tiếp tế con người, vũ khí, trang bị và nhiên liệu, cản trở kế hoạch chuyển trường của TĐQ KQ 15. Việc bị cắt đứt nguồn bổ sung con người và hậu cần, khiến cho tập đoàn quân này không thể tham gia các hoạt động ném bom liên hợp, cho đến hết tháng 2 năm 1944 nó vẫn chưa thể tiến hành bất cứ một cuộc không kích nào.
Cuộc không kích của không quân Đức tuy thành công vang dội nhưng đã gây ra hậu quả thảm khốc không chỉ với lực lượng đồng minh mà còn cả dân thường Italia. Tổng cộng cả binh lính Anh, Mỹ và thường dân Italia đã có hơn 2000 người chết và hàng ngàn người bị thương. Lẽ ra, kết cục đã không bi thảm đến thế nếu không có sự chủ quan, khinh địch của lực lượng phòng không, không quân Anh và sự vô tình tiếp tay của hải quân Mỹ. Mãi đến sau này người ta mới vén được bức màn bí ẩn đằng sau cái chết bất thường của hàng trăm binh lính Anh, Mỹ và dân thường Italia xảy ra sau cuộc không kích. Đây chính là một thảm họa không đáng có với người dân Italia trong thế chiến thứ hai và là một điểm đen trong sự nghiệp của tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt.
Theo Vietbao
Đập mộ liệt sỹ quân Đồng Minh để trả thù ở Libya Hàng chục ngôi mộ tại nghĩa trang liệt sỹ quân Đồng Minh ở Libya đã bị đập vỡ trong một cuộc tấn công trả đũa của những người Hồi giáo cực đoan. Cuộc tấn công xảy ra vào tuần trước tại các nghĩa trang ở Benghazi (Libya) - nơi an nghỉ cuối cùng của hơn 1.100 người lính thuộc Khối thịnh vượng chung...