Phim hoạt hình Việt Nam: Khán giả nhí xem gì?
Những năm qua, chúng ta đã chứng kiến sự nở rộ của phim Việt. Số phim truyện sản xuất một năm lên đến hàng chục. Còn số tập phim truyền hình dài tập lên đến hàng trăm. Nhưng trong lĩnh vực phim hoạt hình, tình hình không được khả quan như vậy…
Cảnh trong phim hoạt hình Ve vàng của hãng phim hoạt hình Việt Nam.
Số lượng phim sản xuất chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay, và chất lượng thì còn tệ hơn nữa. Không ít người tự hỏi, tương lai phim hoạt hình sẽ đi về đâu và con em chúng ta bao giờ mới có thể được xem những bộ phim hoạt hình hấp dẫn sản xuất trong nước?
Nhường “thị phần” cho phim hoạt hình nước ngoài.
Trên truyền hình hiện nay, có khung giờ vàng dành để chiếu phim Việt nhưng là phim “cho người lớn” chứ không phải phim hoạt hình. Khán giả nhí muốn xem phim hoạt hình thì xin mời xem các kênh truyền hình nước ngoài trên hệ thống truyền hình cáp như Catoon Networks, Disney Cattoon. Đó là những kênh dành riêng chiếu phim hoạt hình và các em có thể “no nê” thưởng thức những bộ phim hoạt hình hay của thế giới. Ngay cả kênh truyền hình Bibi do Việt Nam sáng lập cũng gần như chỉ chiếu phim hoạt hình nước ngoài.
Còn nhớ, trong một cuộc hội thảo về phim Việt, khi nhắc đến phim hoạt hình, một nhà biên kịch đã phát biểu, rằng chị rất muốn con mình được xem những bộ phim hoạt hình thuần Việt nhưng thực sự không biết tìm ở đâu. Đài Truyền hình thì thảng hoặc mới chiếu một vài bộ phim ngắn. Còn ra rạp thì gần như không bao giờ có cơ hội. Nghỉ hè, bọn trẻ dán mắt vào tivi xem “Tom và Jerry”, “Vượn đốm Marsupilami”, “Doremon” trên các kênh quốc tế, chúng gần như không có khái niệm về phim hoạt hình Việt. Hàng triệu trẻ em của chúng ta lớn lên mà trong ký ức tuổi thơ của chúng không hề có bóng dáng phim hoạt hình Việt. Về vấn đề này, đạo diễn Nguyễn Minh Trí, phụ trách xưởng hoạt hình của Hãng phim VFC đề nghị: “Theo tôi, muốn “phổ cập” phim truyền hình nhiều hơn đến với khán giả nhí thì các đài cần dành cố định một khoảng thời gian để chiếu phim hoạt hình Việt Nam. Thời lượng này không nhất thiết là mỗi ngày mà có thể hàng tuần, hàng tháng, hoặc nhân dịp hè phát sóng thành một vệt dài”.
Số lượng thiếu, chất lượng yếu
Vẫn là đạo diễn Nguyễn Minh Trí cho hay: “Giả sử đề nghị của tôi được các kênh truyền hình nhất trí, và dành thời gian cố định cho phim hoạt hình thì chúng ta phải huy động các hãng tư nhân vào cuộc, nếu không thì cũng…nguy, vì không có phim phát sóng”. Thực tế là mỗi năm, số lượng phim hoạt hình được sản xuất rất ít và thời lượng mỗi phim trung bình chỉ trên chục phút. Trong khi đó, thế giới người ta thường làm những phim hoạt hình dài 40-50 phút, và phim dài tập thì cũng rất nhiều.
Hiện nay, cả nước có hai đơn vị nhà nước chuyên sản xuất phim hoạt hình là Hãng phim hoạt hình Việt Nam và Xưởng sản xuất phim hoạt hình thuộc Hãng phim truyền hình Việt Nam (VFC). Tư nhân có hai hãng là “B&C Areka”, “ Dolfilm”, nhưng số phim làm ra còn khiêm tốn so với nhu cầu của khán giả. Số lượng đã ít ỏi như thế, nhưng về chất lượng phim còn đáng ngại hơn. Đạo diễn phim hoạt hình nổi tiếng người Pháp Prakash Topsy, khi đến Việt Nam với tư cách là chuyên gia giảng dạy lớp nâng cao nghiệp vụ tại Hãng phim hoạt hình Việt Nam đã thẳng thắn nhận xét: “Phim hoạt hình Việt Nam đang rất lạc hậu so với thế giới”. Ông cũng cho biết là ông đã xem hơn 300 tập phim hoạt hình Việt, nhưng chỉ có một bộ phim mà ông thích, là phim “ Xe đạp” của đạo diễn Phương Hoa, bởi nó có tính khái quát cao, cách thể hiện mạch lạc, gần gũi với khán giả trong nước và dễ hiểu với khán giả quốc tế.
Video đang HOT
Cảnh trong phim hoạt hình “ Người con của Rồng”.
Thế giới đã đi một bước tiến dài trong việc sản xuất phim hoạt hình. Những “siêu phẩm” hoạt hình có thể mang về cho nhà sản xuất lợi nhuận khổng lồ, không kém gì những bộ phim “bom tấn” khác. Chẳng hạn, phim “Lion King” cho doanh thu 312 triệu USD tại Mỹ, “Monters” là 214 triệu USD, “Shrek 2″ đạt doanh thu kỷ lục lên tới 919 triệu USD. Những bộ phim hoạt hình 3D đang khuynh đảo thế giới, không chỉ trẻ em mà ngay cả người lớn cũng thích thú thưởng thức. Trong khi đó, việc làm phim hoạt hình ở Việt Nam vẫn còn rất thủ công. Những bộ phim hoạt hình 3D của Việt Nam đầu tiên như “Giấc mơ của ếch xanh” (đạo diễn Hà Bắc), “Chú heo may mắn”, “Chiếc giếng thời gian” (Hãng VFC), “Truyền thuyết dòng sông Barơnga”, “Rùa và Thỏ” (Hãng phim Giải phóng) vẫn chưa được khán giả biết đến nhiều. Nguyên nhân là kịch bản phim chưa hay, chưa hấp dẫn, chuyển động của nhân vật trong phim chưa đẹp, chưa hợp lý. Tạo hình của nhân vật vẫn còn gượng, chưa đánh trúng tâm lý của người xem.
Một nguyên nhân quan trọng khác là mức độ đầu tư cho phim hoạt hình hiện nay “quá hẻo” dẫn đến việc không có phim hay. Mức độ đầu tư cho một tập phim truyền hình đã được xem là “thê thảm”, thì đầu tư cho phim hoạt hình còn thê thảm hơn. Mỗi tập phim hoạt hình 13 phút chỉ được đầu tư khoảng 130 đến 160 triệu đồng, ít ỏi đến nỗi một số nhà làm phim nước ngoài khi nghe đã nghĩ đây là một câu nói đùa. Trong khi đó phim truyền hình muốn đẹp phải dựa hoàn toàn vào kỹ thuật. Với phim 3D thì số tiền này đúng là như “muối bỏ bể” vậy.
Hè năm ngoái, bộ phim hoạt hình “Vương quốc xe hơi” của điện ảnh Mỹ đã thu về 60 triệu USD chỉ sau một tuần phát hành. Đạo diễn của phim tiết lộ, để chọn được mô hình hai chiếc xe cho nhân vật chính trong phim là Tia và Mia thì ông đã phải lựa chọn trong 43.000 bản vẽ của họa sĩ. Có nghĩa là làm phim hoạt hình muốn hay phải tỉ mỉ, kiên nhẫn, phải có đầu tư lớn. Ít tiền sẽ dẫn đến việc chắp vá, qua loa, nên chất lượng phim chắc chắn sẽ không thể hay được. Mà một khi không hay thì khó mà được khán giả chấp nhận. Vì khán giả nhí của chúng ta đã trở nên rất “sành” khi thường xuyên được xem những phim hoạt hình nước ngoài hấp dẫn trên các kênh truyền hình quốc tế.
Nhà quản lý thờ ơ
Dường như có một tâm lý “bất công” với phim hoạt hình tồn tại bấy lâu: Xem phim hoạt hình là phim dành cho trẻ con, nên không được các nhà quản lý điện ảnh và cả những người làm nghề đầu tư thích đáng. Ai cũng biết, trong kinh tế thị trường, một sản phẩm văn hóa cũng được xem là hàng hóa. Mà hàng hóa muốn được nhiều người biết tới thì phải có quảng cáo. Đạo diễn Nguyễn Minh Trí phàn nàn, tiền làm phim còn “nhỏ giọt” thế, nói gì đến quảng cáo. Hơn nữa, giả dụ có tiền, nhiều nhà quản lý vẫn chưa chắc đã nghĩ đến chuyện quảng cáo. Dường như họ quan niệm phim cho trẻ con thì không cần quảng cáo.
Một phụ huynh khi trao đổi với phóng viên cũng đề cập: “Tôi biết thông tin bộ phim hoạt hình “Xe đạp” của đạo diễn Phương Hoa rất hay, giành giải Cánh diều vàng, nhưng tôi không biết là đưa con đến đâu mới xem được bộ phim này, hay đơn giản là mua được đĩa về nhà cho con xem”. Năm 2010, nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, bộ phim hoạt hình 3D “Người con của Rồng” được đầu tư 6 tỷ đồng, số tiền kỷ lục cho phim hoạt hình. Nhưng phim chỉ được phát sóng trên truyền hình vào ngày đại lễ và được ra rạp chiếu một buổi, nhân khai trương rạp Kim Đồng ở Hà Nội. Không có những thông tin quảng cáo, quảng bá sản phẩm, khán giả nhí chẳng biết cách nào để được thưởng thức bộ phim. Các rạp chiếu phim thì gần như không bao giờ “ngó ngàng” đến việc chiếu phim hoạt hình. Họ thà bỏ ra thêm 1 tỷ đồng để lồng tiếng Việt cho một bộ phim nước ngoài, phục vụ các khán giả nhí chưa biết chữ (như trường hợp cụm rạp Megastar đã làm với bộ phim hoạt hình “Rio” của điện ảnh Mỹ), hơn là chiếu một bộ phim hoạt hình trong nước. Chúng ta không thể trách họ. Vì họ phải hướng đến những bộ phim ăn khách. Nhưng, với những bộ phim có chất lượng tốt như “Người con của Rồng”, “Xe đạp”…, nếu được quảng bá tốt, rất có thể thu hút được số lượng không nhỏ khán giả.
Làm một bộ phim truyện nhựa có thể chỉ cần 6 tháng. Nhưng để có một bộ phim hoạt hình hơn chục phút, đạo diễn phải mất tới 1-2 năm là thường. Vất vả, khó khăn, nhưng sản phẩm làm ra không có khán giả hoặc không đến được với khán giả khiến cho các nghệ sĩ nản lòng. Tình yêu nghề cũng vì thế mà mai một dần đi.
Thị trường dành cho phim hoạt hình không phải là không có. Hàng triệu khán giả nhí vẫn luôn mong chờ được thưởng thức những bộ phim hoạt hình chất lượng. Một khi các nhà quản lý quan tâm hơn đến nhu cầu của các em và có sự đầu tư thích đáng hơn trong tương lai thì chắc chắn bức tranh ảm đạm của phim hoạt hình hiện nay sẽ được cải thiện.
Theo vietnamnet
Trong lành hồn Việt trên phim
Cùng với Bí thư tỉnh ủy, Người con của rồng, Long thành cầm giả ca, biên kịch Văn Lê, đạo diễn Đào Bá Sơn đã vượt qua hàng chục phim ứng viên khác để vinh dự nhận giải Cánh diều vàng vừa diễn ra tại thành phố Hồ Chí Minh.
Phim truyện Việt dã sử hiếm hoi
Điều đáng nói là theo dư luận báo chí thì Cánh đồng bất tận cũng là phim truyện nhựa dựa theo truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình là một bộ phim "sẽ bất khả chiến bại".
Thế nhưng đến phút chót, Long thành cầm giả ca - phim truyện nhựa dã sử, kịch bản Văn Lê, đạo diễn Đào Bá Sơn đã đoạt ngôi vị Quán quân. Liệu đây có thể được xem là một tín hiệu đáng mừng bước đầu khẳng định và đề cao yếu tố chuyên môn trong thẩm định tác phẩm nghệ thuật, chứ không chịu áp lực của truyền thông?
Tuy là phim dã sử nhưng việc tôn trọng những sự kiện lịch sử giai đoạn 1783 - 1813, cuối Lê, đầu Nguyễn không thể không tính đến. Sự thật lịch sử đó chủ yếu dựa vào một mối tình đã được "thơ hóa" trong một tác phẩm nghệ thuật của đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du, nên đây là một bộ phim nghệ thuật dã sử theo đúng nghĩa.
Các nhà chép sử trước đây thường ít quan tâm đến tình cảm cá nhân của những người thuộc hạng "xướng ca vô loài". Đây chính là lợi thế cho các tác phẩm nghệ thuật về lịch sử phát huy "đất dụng võ". Đến nay, chưa ai dám chắc rằng Long thành cầm giả ca có bao nhiêu phần trăm là hư cấu nghệ thuật và bao nhiêu phần trăm là sự thật lịch sử. Nhân vật chính Tố Như (tên tự của Nguyễn Du) là một nhân vật lịch sử và văn hóa đã được nhiều thế hệ người Việt Nam và cả thế giới biết đến, nhưng người bạn tình của thi hào thì chỉ một mình ông biết mà thôi. Cái mà chúng ta có thể biết được về người con gái có tên Cầm cũng chỉ là một hình tượng nghệ thuật trong một bài thơ khá nổi tiếng có tên Long thành cầm giả ca của cụ Nguyễn Tiên Điền. Người con gái trong bài thơ nói trên và cả trong bộ phim cùng tên sau này không phải là một nhân vật lịch sử, mà là một hình tượng nghệ thuật do hư cấu mà nên.
Văn nhân và ca kỹ - hai loại người này về số phận lịch sử thường có những nét tương đồng nên rất dễ cảm thông cho nhau, đồng thời thân phận những con người nhỏ bé trước sự ba đào của lịch sử bao giờ cũng dễ tìm được sự đồng cảm của nhiều người. Tác giả kịch bản Văn Lê và đạo diễn Đào Bá Sơn tỏ ra có lý khi quyết định đưa hình ảnh một nhân vật lịch sử là danh nhân văn hóa lên màn ảnh rộng. Đấy là điểm mấu chốt đầu tiên khiến phimLong thành cầm giả ca được nhiều người đón đợi và quan tâm bàn luận.
Sự tôn vinh văn hóa Việt
Loại trừ tất cả những khiếm khuyết trong quá trình dàn dựng bộ phim về tính chuyên nghiệp của đạo diễn và diễn viên, về âm nhạc, ánh sáng, trường quay, về các yếu tố kỹ thuật, phục trang, lời thoại... thì bộ phim về một danh nhân văn hóa thế giới của Việt Nam, đại thi hào Nguyễn Du ít nhất phải thỏa mãn được tâm lý người Việt khi thưởng ngoạn.
Cái hồn Việt được toát lên ở không khí chung của toàn cảnh bộ phim và trong từng chi tiết mà các diễn viên thể hiện, trong tiết tấu nhạc nền và âm thanh, trong bối cảnh... Bởi lẽ, lịch sử dân tộc có lúc thăng, lúc trầm, có tiến, có thoái thì hà cớ gì lại chỉ phản ánh những màn binh đao khói lửa, đạn bom và súng gươm, đầu rơi máu chảy, những thiên anh hùng ca hào sảng đến chói lóa.
Phim được mở đầu bằng hình ảnh một cô bé soi bóng dưới làn nước trong lành của giếng làng (do Nhật Kim Anh đóng), tạo nên cảm giác cho người xem đây là một làng quê hiền hòa, thanh bình. Mẹ của cô bé là một ca kỹ nên cô cũng theo nghề của mẹ. Cô bé được đưa lên Long thành, theo học tại lớp đàn hát của thầy Nguyễn và tại đây, cô được đổi tên là Cầm. Ngay từ lần đầu gặp gỡ, thầy Nguyễn đã nhận ra ở Cầm một khí chất và tài năng hơn người. Tiếng đàn của Cầm toát lên vẻ thanh tao, cao quý mà không phải bất cứ một ca nương nào cũng có. Vào tuổi trăng tròn, Cầm may mắn được gặp và đem lòng cảm mến tân khoa Tố Như (do Quách Ngọc Ngoan đóng) khi anh trên đường trở về nhà. Cuộc gặp gỡ định mệnh khiến hai tâm hồn trở nên xao động. Dù đã có vợ và hai con ở quê nhà, nhưng Tố Như không thể làm ngơ trước tài sắc của Cầm.
Thế nhưng ở vào cái thời buổi đất nước loạn lạc, vua quan tranh giành quyền bính, giặc ngoại xâm uy hiếp nền thái bình dân tộc, khiến người dân lầm than, ly tán khắp muôn phương. Trong cơn ba đào ấy, chàng tân khoa Tố Như đã viết nên những vần thơ làm lay động lòng dân trăm họ về ca nương Cầm. Và câu chuyện tình đầy lãng mạn nhưng cũng vô cùng éo le giữa hai người bắt đầu nảy nở từ đấy.
Đạo diễn Đào Bá Sơn đã tập trung khai thác những yếu tố tâm lý, xúc cảm của con người được thể hiện qua câu chuyện tình ấy làm người xem rung động. Đồng thời phim đã tạo dựng được một không khí cổ kính, uy nghiêm, mang đậm hồn cốt Việt, mà đỉnh cao của nó chính là con người và miền đất kinh thành Thăng Long xưa.
Với nhiều cảnh quan đẹp từ Sơn Tây, làng cổ Đường Lâm, phủ Thành Chương, cố đô Hoa Lư, Ninh Bình, các chùa chiền ở kinh Bắc xưa, cố đô Huế... và một dàn diễn viên đẹp như người mẫu Quách Ngọc Ngoan, ca sĩ Nhật Kim Anh, diễn viên Bùi Bài Bình, Trần Lực... Long thành cầm giả ca đã phần nào thể hiện được nét văn hóa lâu đời của người Việt. Khán giả như được sống lại bầu không khí cổ xưa với những trò chơi dân gian quen thuộc, những câu thơ trữ tình hay những điệu hát chầu văn, ả đào, các bài đồng dao được điểm xuyết trong phim gợi lên không gian thân thuộc của người dân đất Bắc xa xưa. Hình ảnh giếng làng, cây đa quán dốc hay các nàng ca kỹ e ấp bên cây đàn nguyệt được tận dụng tối đa.
Có thể nói, Long thành cầm giả ca là một trong những phim dã sử hiếm hoi của Điện ảnh Việt Nam thể hiện được tính thuần Việt trong khâu mỹ thuật của bộ phim này.
Theo 2Sao