Phía sau bản án tử hình – Kỳ cuối: Tử hình và trắng án
Là nghi can của vụ giết người, ph ân xác nạn nhân một cách dã man, Denchai Nutiphanich (quốc tịch Thái Lan, làm ăn sinh sống tại VN) đã bị TAND TP.HCM tuyên bản án tử hình. Thế rồi sau nhiều lần bị hủy án, điều tra lại cơ quan tố tụng phải ra quyết định đình chỉ điều tra bị can.
Luật sư Lê Hồng Nguyên (phải) và Denchai trong ngày Denchai được trả tự do (tháng 6-2009) – Ảnh: CHI MAI
Từ chỗ phải nhận bản án tử hình, nghi can đã được trắng án sau gần chín năm bị tạm giam. Vậy hung thủ thật sự đã gây cái chết đau đớn cho nạn nhân, để lại nỗi mất mát không thể bù đắp nổi cho gia đình của họ là ai? Câu hỏi này cũng chính là món nợ của cơ quan tố tụng đối với gia đình nạn nhân.
Vụ án đáng nhớ trong đời một luật sư
Theo luật sư Lê Hồng Nguyên, đây là vụ án đáng nhớ nhất trong cuộc đời làm luật sư của ông. Khoảng giữa
năm 2003, luật sư Nguyên được người vợ VN của Denchai mời bào chữa cho bị cáo. Denchai là nghi can chính trong vụ án giết người, phân xác xảy ra tại khách sạn Quyền Thanh, quận 1 gây kinh hoàng dư luận vào tháng 6-2000. Lúc ông nhận vụ án này, Denchai đã bị xét xử sơ thẩm với mức án tử hình. Theo bản án thì Denchai được xác định là người đã giết chết ông Ngũ Lương, chủ một tiệm vàng tại quận 5, TP.HCM, vì mâu thuẫn tiền bạc trong cá độ bóng đá mùa bóng Euro 2000.
“Ngay khi bắt tay vào đọc hồ sơ vụ án, tôi suy nghĩ rất nhiều bởi cảm nhận vụ án có điều gì đó bất ổn” – luật sư Nguyên cho biết. Theo luật sư, vụ án thật đau lòng. Chiều 27-6-2000, ông Ngũ Lương ra khỏi nhà, có nói với vợ là đi lấy tiền thắng độ bóng đá với Denchai, còn hẹn tối sẽ về dự sinh nhật con gái. Sau đó, ông Ngũ Lương đã mất tích một cách bí ẩn khiến gia đình phải trình báo công an. Ba ngày sau, cơ quan công an nhận được tin báo từ khách sạn Quyền Thanh cho biết nhân viên dọn phòng đã phát hiện một thi thể nạn nhân bị cắt rời gói trong bốn bọc nilông để dưới gầm giường căn phòng 301. Đây là căn phòng mà Denchai đã thuê vào ngày 26-6.
Theo bản án thì Denchai là người đã đưa Ngũ Lương lên phòng khách sạn, sau đó giết chết và phân xác nạn nhân. Theo luật sư Nguyên, bản án kết tội Denchai chủ yếu dựa vào một số chứng cứ như: Denchai là người thuê căn phòng, có quan hệ tiền bạc trong cá độ bóng đá với Ngũ Lương, kết luận giám định dấu máu trong chiếc balô màu đỏ của Denchai là của nạn nhân Ngũ Lương. Cộng thêm một số lời khai của nhân chứng khác về việc Denchai có hỏi thăm nếu một người mất tích thì bao lâu công an sẽ tìm ra? Việc Denchai nhờ người mua 1kg bao xốp đen… Do đó bản án cho rằng Denchai là hung thủ giết ông Ngũ Lương để xù tiền thắng độ bóng đá. Trong khi đó Denchai lại kêu oan, cho rằng có một nhóm người Thái Lan bị Ngũ Lương nợ tiền cá độ nhưng không trả nên yêu cầu Denchai tìm cách đưa Ngũ Lương đến gặp nhóm người này để thanh toán nợ. Lấy lý do chung độ 441 triệu đồng nên Denchai đã đưa Ngũ Lương đến phòng để gặp nhóm đồng hương trên. Còn việc ai giết Ngũ Lương, giết ra sao thì Denchai không biết.
“Chứng cứ quan trọng mà tòa án buộc tội Denchai là vết máu của nạn nhân trong chiếc balô màu đỏ của Denchai. Bản thân tôi cho rằng nếu Denchai chính là người đã đem thủ cấp của nạn nhân đi phi tang thì có lẽ không bao giờ bị cáo lại đem cái balô ấy về nhà. Tôi tin lời khai của Denchai rằng lúc đưa Ngũ Lương lên phòng bị cáo đã bỏ quên balô lại, sau đó một người Thái Lan trong nhóm đã đưa trả lại balô cho bị cáo” – ông Nguyên nói.
Video đang HOT
Do khách sạn có nhiều đường đi nên nhân viên khách sạn không thể nhìn thấy những người Thái Lan này đã lên phòng của Denchai thuê để gặp Ngũ Lương. Hơn nữa, theo luật sư Nguyên: “Một chi tiết hết sức quan trọng là bao đựng xác nạn nhân được dán băng keo thì trên băng keo có nhiều dấu vân tay lạ, không phải của Denchai. Dấu vân tay này cũng trùng khớp với dấu vân tay để lại trên chiếc điện thoại của nạn nhân Ngũ Lương được tìm thấy sau”.
Theo luật sư, về nguyên tắc, nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tố tụng, còn nghi can không có nghĩa vụ phải chứng minh mình vô tội. Thế nhưng trong vụ án này, ngoài một số lời khai nhận nghe có vẻ logic của những nhân chứng khác thì cơ quan tố tụng không thể chứng minh được rằng Denchai đã giết nạn nhân bằng cách nào. Giết bằng dao hay bằng gì khác, hung khí của vụ án là gì cũng không xác định được.
Theo luật sư Nguyên, những mâu thuẫn trên đã được tòa phúc thẩm TAND tối cao xem xét và tuyên hủy bản án để điều tra lại. Kết quả là sau hai lần điều tra bổ sung vẫn bị TAND TP.HCM hoàn trả hồ sơ để tiếp tục đề nghị xác minh nhóm người Thái Lan mà Denchai đã khai, đối chất lời khai nhân chứng mà không thể làm được, đến tháng 6-2009, cơ quan điều tra đã phải trả tự do cho Denchai, sau đó đã đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án. Tổng cộng Denchai đã bị tam giam gần chín năm.
Chia sẻ về vụ án này, luật sư Nguyên cho biết: “Tôi cũng rất đau lòng và chịu áp lực trước bức xúc của gia đình nạn nhân. Thế nhưng, để thực thi công lý đòi hỏi phải tuyệt đối chính xác, muốn buộc tội thủ phạm thì phải có đầy đủ chứng cứ, không thể thực hiện việc suy đoán có tội đối với nghi can. Một khi cơ quan tố tụng không đủ chứng cứ để buộc tội thì phải ra phán quyết là bị can không có tội”.
Món nợ của cơ quan tố tụng
Nhiều năm đã trôi qua nhưng vụ án Denchai từ bị kết án tử hình rồi được đình chỉ điều tra là một “kỳ án” còn nhiều quan điểm khác nhau của các cơ quan tố tụng. Chia sẻ về vụ án này, một số người tiến hành tố tụng đã từng tham gia truy tố, xét xử theo hướng buộc tội Denchai vẫn cho rằng với các chứng cứ trong hồ sơ vụ án, họ có đủ niềm tin nội tâm để cho rằng Denchai là người phạm tội.
Thế nhưng, quan điểm cuối cùng của cơ quan tố tụng về vụ án này thể hiện trong quyết định đình chỉ điều tra bị can của cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP.HCM đối với Denchai là: “Đã hết thời hạn điều tra nhưng không chứng minh được bị can phạm tội giết người”.
Chia sẻ về vụ án này, một kiểm sát viên cao cấp trầm ngâm: “Có thể nói vụ án này là món nợ của cơ quan tố tụng đối với gia đình nạn nhân. Nếu đủ chứng cứ để buộc tội Denchai thì bản án tử hình là hình phạt hiển nhiên phải áp dụng với bị cáo, bởi tính chất phạm tội quá tinh vi và man rợ với nạn nhân. Thế nhưng, không tìm đủ chứng cứ để chứng minh bị cáo phạm tội thì cơ quan tố tụng cũng đành chịu, không thể buộc tội bị cáo khi còn điều gì đó nghi ngờ, lấn cấn. Khi cho rằng không đủ chứng cứ để chứng minh Denchai, nghi can chính của vụ án, là người đã giết ông Ngũ Lương thì hung thủ thật sự là ai? Trách nhiệm này thuộc về cơ quan tố tụng”.
Thật ra, theo vị kiểm sát viên, trong điều tra, truy tố, xét xử tội phạm vẫn phải chấp nhận những trường hợp cơ quan tố tụng phải “chịu thua”, không thể tìm ra hung thủ của vụ án mà theo cách nói của nhiều người là “lực bất tòng tâm”. Chỉ mong những trường hợp cơ quan tố tụng phải “mắc nợ” người nhà nạn nhân như thế là những trường hợp hi hữu.
Vụ án đã xảy ra nhiều năm qua, nỗi đau của gia đình nạn nhân có thể đã phần nào nguôi ngoai, nhưng mong mỏi của họ về sự công bằng trong thực thi công lý vẫn là một dấu hỏi lớn dành cho cơ quan tố tụng.
Theo Tuổi Trẻ
Phía sau bản án tử hình - Kỳ 6: Sự sống từ ân huệ cuối cùng
Từ khi án tử được tuyên tới khi bị cáo phải thi hành án là một quãng thời gian dài với rất nhiều hi vọng của cả tử tù, thân nhân lẫn nhiều người trong hội đồng xét xử.
Cán bộ trại giam số 5 (Thanh Hóa) trò chuyện với một phạm nhân. Niềm tin được giảm án khiến nhiều người sống tốt hơn ở trại giam - Ảnh: TÂM LỤA
Niềm vui của vị thẩm phán
Theo lời kể của một thẩm phán tại TAND TP. HCM, ông nhận hồ sơ và bắt tay nghiên cứu vụ án vào một buổi chiều hè. Tình tiết vụ án khá đơn giản, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình: Sau khi học hết lớp 12, T. từ Long Khánh - Đồng Nai lên TP.HCM làm công nhân một nhà máy tại quận Bình Tân. Trong một buổi nhậu cuối tuần với các công nhân khác, chỉ vì lời qua tiếng lại với nhau mà sau đó T. tìm M. đâm chết.
"Tôi nhớ phiên tòa này hội đồng xét xử nghị án lâu lắm. Thường những vụ án mà bị cáo bị xử phạt mức án cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì khi nghị án, hội đồng phải bàn luận, xem xét kỹ hơn bình thường. Vụ án của T. còn kéo dài hơn bởi ý kiến các thành viên hội đồng không thống nhất với nhau, chúng tôi đã bàn luận rất căng thẳng"- vị thẩm phán nhớ lại.
Tại phiên tòa, đại diện VKS chỉ đề nghị phạt T. mức án tù chung thân, nhưng nhiều ý kiến trong hội đồng cho rằng phải xử T. mức án tử hình mới tương xứng. Những người có quan điểm phải tử hình T. cho rằng bị cáo có quyết tâm phạm tội đến cùng dù đã nhiều lần được bạn bè can ngăn.
"Hồ sơ vụ án thể hiện bị cáo khai báo rất tốt. Suốt quá trình thẩm vấn, tôi cũng đã quan sát bị cáo rất kỹ. T. khai báo rất thành khẩn. Tôi thấy rõ sự ân hận trong từng lời khai, ánh mắt của bị cáo khi nhìn hội đồng xét xử, nhìn gia đình nạn nhân. Đọc hồ sơ thì thấy T. chưa từng có tiền án tiền sự, có thể nói đây là sai lầm đầu tiên của T.. Làm người hiển nhiên ai chẳng có lần lầm lỗi, thế nhưng để trả giá cho sai lầm đầu tiên của đời người mà chàng trai trẻ này phải đổi bằng mạng sống của mình thì quả thật đáng tiếc"- vị thẩm phán trầm ngâm.
Tuy nhiên, đề nghị tù chung thân của vị thẩm phán chỉ là ý kiến thiểu số trong hội đồng xét xử gồm năm người biểu quyết. Kết quả nghị án phải theo đa số. Ý kiến của vị thẩm phán được bảo lưu trong hồ sơ.
Lúc hội đồng tuyên án tử hình, nhìn T. đau đớn còn gia đình bàng hoàng kêu khóc, vị thẩm phán thấy lòng mình nặng trĩu... Thế rồi, T. kháng cáo xin giảm án, gia đình nạn nhân cũng có đơn kháng cáo xin giảm án cho T., vị thẩm phán vẫn hi vọng cấp phúc thẩm sẽ sửa án. Bất ngờ là tại phiên tòa phúc thẩm, không rõ trong lúc tranh luận, bào chữa, luật sư của T. có nói gì không phải về nạn nhân nên gia đình nạn nhân tức giận rút lại đơn kháng cáo, không xin giảm án cho T. nữa. T. không được xem xét tình tiết giảm nhẹ này. Dù VKS phúc thẩm cũng đề nghị giảm xuống tù chung thân cho T. nhưng tòa phúc thẩm vẫn tuyên y án sơ thẩm, tử hình T..
"Tôi cứ dõi theo tiến trình xét xử đối với T.. Đến cả năm sau đó, chánh án TAND tối cao, viện trưởng VKSND tối cao cũng lần lượt có văn bản không kháng nghị giám đốc thẩm vụ án. Lúc này, cơ hội được sống của T. càng mong manh hơn. Bản án tử hình với T. lúc này đã trải qua gần đủ các thủ tục để có thể thi hành, chỉ còn trông chờ vào hi vọng cuối cùng là sự ân giảm của Chủ tịch nước. Thật mừng là sau khi xem xét đơn và hồ sơ của T., Chủ tịch nước đã chấp nhận đơn xin ân giảm án tử hình của T.. Nghe tin này, tôi mừng quá, cuối cùng T., cũng được sống!"- vị thẩm phán nói.
Tử tù Hờ A Sinh Lứ đã được ân giảm xuống còn tù chung thân - Ảnh: TÂM LỤA
Nuôi những hi vọng...
Niềm vui được ân giảm án tử hình không thuộc về một mình bị cáo, niềm vui ấy còn là của cả hội đồng xét xử - những người vì sự nghiêm minh của pháp luật đã phải tuyên bị cáo án tử hình. Niềm vui ấy là của cả gia đình bị cáo, của cả những giám thị trại giam nơi bị cáo đang chờ ngày thi hành án tử. Không phải ngẫu nhiên mà đại tá Vũ Xuân Hồng, phó giám thị trại giam số 1 Hà Nội, luôn khuyên các phạm nhân đang chờ thi hành án tử hãy làm đơn lên Chủ tịch nước xin ân giảm án tử hình. Ông nói về hơn 50 tử tù đang chờ thi hành án trong trại: "Vừa trông nom họ, chúng tôi vừa nuôi cho họ hi vọng giảm án. Tôi nói với họ dù có một phần nghìn hi vọng thì vẫn phải hi vọng, vẫn phải làm đơn xin ân giảm. Hi vọng ấy giúp họ sống tốt hơn trong những ngày chờ thi hành án. Và điều đó đã xảy ra đối với nhiều tử tù. Đó là tin vui với chúng tôi".
Câu chuyện của Hờ A Sinh Lứ (28 tuổi, Mai Châu, Sơn La) là một hi vọng, một tin vui như thế. Năm 2007, Lứ bị bắt tại Hà Tây khi đang mang trên người 12 cục heroin. Lần đầu tiên chúng tôi gặp Hờ A Sính Lứ trong buồng hỏi cung của trại giam số 1, Lứ đang chờ thi hành án tử. Gặp chúng tôi, Lứ run bần bật, khuôn mặt tái mét. Đôi tay Lứ run, hàm răng Lứ cũng run, đôi mắt thì ầng ậc nước. Được giám thị trại cho phép nói chuyện 60 phút nhưng mất 15 phút đầu chúng tôi không hỏi được Lứ câu gì. Hỏi gì Lứ cũng chỉ lắc đầu. Chỉ đến khi một cán bộ đưa cho Lứ điếu thuốc hỏi có hút không, Lứ lắc đầu, ngước đôi mắt rất biết ơn thì câu chuyện của Lứ mới được giãi bày. Lứ là con lớn trong gia đình có chín anh chị em, Lứ và em trai bị bắt cùng nhau khi đang vận chuyển ma túy và đến giờ Lứ không biết em trai đang bị giam ở đâu.
Nhà không có nhiều nương, túng đói nên đã bán đi gần hết, Lứ đã có vợ và hai đứa con ở quê, đứa lớn 7 tuổi, đứa bé 5 tuổi. "Thương vợ con lắm nhưng không biết làm thế nào - Lứ nói thế và khóc - Em chỉ mong được về nhà trồng ngô, trồng sắn thôi. Bản Mông của em cách quốc lộ 6 12km. Ngày mưa phải đi bộ mới vào được bản. Giám thị trại giam nói cứ chờ đi biết đâu được Chủ tịch nước ký đơn giảm án. Nếu không có hi vọng ấy thì em đã không còn sống đến ngày hôm nay".
Và hi vọng ấy của Lứ đã trở thành sự thật. Lần thứ hai chúng tôi gặp lại Lứ khi Lứ đang thi hành án tại trại giam số 5- Thanh Hóa. Lứ được Chủ tịch nước xét duyệt đơn ân giảm xuống còn tù chung thân.
Lứ gặp chúng tôi khi được áp giải từ đồng về. Trại giam đang vào mùa gặt lúa. Mồ hôi nhễ nhại, Lứ lặng thinh không nói gì. Gần sáu năm chờ thi hành án tử, Lứ bảo cứ khoảng 3-4g sáng khi tiếng cửa lách cách từ buồng giam bên cạnh dẫn tù nhân đi thi hành án là Lứ lại thót tim. Sáng nào cũng ngỡ ngày mình dựa cột đã tới rồi. Gần sáu năm ngồi trong tù với nỗi chờ đợi thót tim như thế đã làm Lứ từ một cậu trai khỏe mạnh, nhanh nhẹn trở nên đờ đẫn. Cán bộ trại giam phải thường xuyên gọi Lứ lên nói chuyện để giúp Lứ ổn định tâm lý, thích nghi với môi trường mới.
Trước khi chúng tôi ra về, Lứ còn đọc số điện thoại của vợ mình và bảo: "Vợ em tên Phang. Chị nhắn vợ em nếu có điều kiện thì vào thăm em. Mang cho em vài bộ quần áo để em tắm. Em nhớ vợ con lắm!".
Theo Tuổi Trẻ
Phía sau bản án tử hình - Kỳ 5: Gặp lại tử tù Xiêng Phênh Được sự giúp đỡ của cơ quan chức năng hai nước Việt-Lào, chúng tôi đến trại giam thuộc Công an Bôlykhămxay (Lào) tiếp xúc với Xiêng Phênh, trùm ma túy đang đối mặt với án tử hình lần hai. Hình ảnh đầu tiên khiến tôi bất ngờ là khi vừa rón rén bước ra khỏi cánh cửa sắt trại giam, Xiêng Phênh quỳ...