Phát triển vùng nguyên liệu đạt chuẩn – giải pháp để gạo Việt chiếm lĩnh thị trường EU
Việt Nam hiện là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 3 thế giới nhưng gạo Việt lại khó có mặt tại các thị trường lớn như Liên minh châu Âu (EU).
Trao đổi với phóng viên TTXVN tại Brussels, ông Trần Văn Công, Tham tán nông nghiệp Việt Nam tại EU đã đưa ra những nhận định, đánh giá về vấn đề này.
Theo ông Trần Văn Công, hoạt động xuất khẩu gạo sang thị trường EU trong những năm vừa qua có nhiều khởi sắc. Tuy nhiên, EU không phải là thị trường nhập khẩu gạo lớn của Việt Nam do EU chỉ dành một hạn lượng là 80.000 tấn cho gạo trong Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA). Một lý do khác là EU cũng không phải là một thị trường tiêu thụ gạo lớn so với các thị trường khác.
Trong thời gian vừa qua, từ khi triển khai EVFTA, các doanh nghiệp Việt Nam đã nỗ lực để xuất khẩu gạo sang thị trường EU theo hạn lượng được cấp. Ông Trần Văn Công cho biết, đối với gạo xát thường, các doanh nghiệp đã tận dụng triệt để hạn ngạch. Riêng gạo xay, xuất khẩu vào EU còn rất ít. Theo cam kết là 20.000 tấn nhưng các doanh nghiệp Việt Nam mới thực hiện được một phần rất nhỏ.
Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã cố gắng nỗ lực để tận dụng hạn ngạch 30.000 tấn gạo thơm xuất khẩu. Tuy nhiên, theo ông Trần Văn Công, việc xin cấp giấy chứng nhận với dòng gạo thơm còn khó khăn nên việc tận dụng mức hạn ngạch gạo thơm nêu trên trong thời gian vừa qua cũng chưa được như mong muốn. Do đó, lượng gạo của Việt Nam vào thị trường EU còn hạn chế so với các nước khác.
Video đang HOT
Để xuất khẩu gạo thành công vào thị trường EU, ông Trần Văn Công cho rằng các doanh nghiệp cần phải đảm bảo được nguồn nguyên liệu chuẩn, đạt các tiêu chí do các quy định của EU đưa ra, cụ thể là các ngưỡng giới hạn dư lượng thuốc bảo vệ thực vật theo Quy định 396/2005. Các doanh nghiệp Việt Nam muốn tận dụng và khai thác tốt thị trường gạo EU cần phải tập trung vào phát triển vùng nguyên liệu đạt chuẩn theo các quy định của EU. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần tập trung vào khai thác tốt hạn ngạch EU đã dành cho Việt Nam với thuế suất là 0% trong khuôn khổ của EVFTA.
Ông Trần Văn Công nhấn mạnh, trong thời gian vừa qua, các doanh nghiệp Việt Nam đã khai thác tốt hạn lượng gạo xát nhưng vẫn cần tập trung khai thác thêm hạn ngạch đối với nhóm gạo thơm và nhóm gạo xay để tận dụng tối đa hạn ngạch mà EU dành cho Việt Nam.
Ngoài ra, theo ông Trần Văn Công, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần trao đổi với các đối tác nhập khẩu tại EU, đăng ký sớm với các cơ quan có thẩm quyền tại EU để có khung thời gian phù hợp và tập trung vào phát triển thương hiệu gạo.
Thời gian vừa qua, gạo của Việt Nam được xuất khẩu chủ yếu thông qua một số đối tác lớn tại Đức, Séc, Hà Lan và Pháp và vẫn còn hạn chế tại các quốc gia khác. Hiện nay, Đức vẫn là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam thông qua nhiều kênh khác nhau. Gạo Việt nhập khẩu Đức được phân phối lại cho các nước khác, phục vụ nhu cầu trong nước, phân phối theo các cái kênh cho nhà hàng, siêu thị, các hệ thống siêu thị bán lẻ của cộng đồng châu Á. Gạo của Việt Nam cũng đã bước đầu được đánh giá cao về mặt chất lượng và có khả năng tiếp cận chiếm lĩnh thị trường.
Phát triển vùng nguyên liệu dừa hữu cơ hơn 13.000 ha
Sau hơn 4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 03/NQ-TU của Tỉnh ủy Bến Tre về xây dựng và hoàn thiện chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp chủ lực, chuỗi giá trị dừa được đánh giá đạt kết quả cao nhất trong sản xuất, liên kết và tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn tỉnh.
Người dân thu hoạch dừa. Ảnh tư liệu: Huỳnh Phúc Hậu/TTXVN
Qua liên kết với doanh nghiệp, các hợp tác xã, tổ hợp tác và bà con nông dân đã xây dựng được vườn dừa hữu cơ phục vụ cho nhu cầu chế biến, xuất khẩu.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bến Tre Huỳnh Quang Đức cho biết, việc xây dựng chuỗi giá trị dừa hữu cơ có ý nghĩa rất lớn, nhất là có thể liên kết những hộ sản xuất nhỏ để hình thành sản xuất lớn, đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới. Qua sản xuất dừa hữu cơ, giá trị sản xuất được tăng lên, sức mua của doanh nghiệp đối với người dân cũng tốt hơn và doanh nghiệp cũng thuận lợi trong kinh doanh.
Đến nay, chuỗi giá trị sản phẩm dừa của tỉnh Bến Tre đã có 27 hợp tác xã, 47 tổ hợp tác tham gia với tổng diện tích liên kết hơn 12.684 ha, chiếm 16,5% tổng diện tích dừa toàn tỉnh. Tỉnh hiện có 7 doanh nghiệp liên kết tiêu thụ dừa cho bà con nông dân và các tổ hợp tác, hợp tác xã.
Đáng chú ý, hai doanh xây dựng vùng dừa hữu cơ nhiều nhất là Công ty TTHH Chế biến dừa Lương Quới, với diện tích gần 5.000 ha và Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Bến Tre (Betrimex) gần 2.800 ha.
Ông Nguyễn Bảo Trí- Phó Giám đốc Công ty TNHH Chế biến dừa Lương Quới cho hay, công ty dự kiến đến năm 2025 sẽ phát triển vùng sản xuất dừa hữu cơ lên 10.000 ha và luôn đảm bảo giá cả thu mua cho người dân cao hơn thị trường từ 15-20%. Ngoài ra, công ty cũng khuyến khích các tổ hợp tác, hợp tác xã có đủ năng lực, quy mô tiến hành tổ chức sơ chế thì công ty sẽ đảm bảo ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm.
Theo ông Nguyễn Văn Nhứt, thành viên Hợp tác xã Nông nghiệp Thới Thạnh, huyện Thạnh Phú, tham gia sản xuất dừa hữu cơ, bà con nông dân được công ty tập huấn kỹ thuật canh tác theo quy trình hữu cơ. Hơn nữa, giá cả tiêu thụ cũng cao hơn giá thị trường, đồng thời năng suất, sản lượng dừa cũng cao hơn so với dừa canh tác thông thường.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bến Tre Huỳnh Quang Đức thông tin, từ chỗ những mô hình nhỏ lẻ chỉ có vài trăm nông dân với diện tích khiêm tốn. Đến nay, tỉnh Bến Tre đã phát triển vùng nguyên liệu dừa hữu cơ 13.125 ha, với rất nhiều doanh nghiệp lớn tham gia; trong đó, diện tích đạt chứng nhận là 7.249 ha.
Bên cạnh đó, tỉnh cũng có 40 tổ hợp tác và 18 hợp tác xã tham gia vào chuỗi liên kết dừa hữu cơ. Các vườn dừa sau khi đạt chứng nhận hữu cơ, được doanh nghiệp thu mua tăng thêm từ 10-15% so với giá dừa thường. Doanh nghiệp còn hỗ trợ nông dân chi phí tập huấn kỹ thuật, chi phí thực hiện chứng nhận và chi phí chứng nhận hữu cơ.
Ông Huỳnh Quang Đức cho rằng, qua sản xuất dừa hữu cơ, các doanh nghiệp tạo được chỗ đứng rất tốt trong thị trường, nhất là các thị trường xuất khẩu khó tính. Đặc biệt, các sản phẩm dừa hữu cơ của tỉnh ngày càng phong phú và đạt chứng nhận hữu cơ như nước dừa đóng hộp, dầu dừa, cơm sừa nạo sấy...Đây là bước thuận lợi rất lớn trong việc tạo giá trị tăng thêm cho ngành dừa của tỉnh.
Để hoàn thiện và nâng cao hơn nữa giá trị của cây dừa, Tỉnh ủy Bến Tre đã ban hành Nghị quyết số 07/NQ-HĐND về xây dựng vùng sản xuất tập trung, gắn phát triển chuỗi giá trị nhóm sản phẩm nông nghiệp chủ lực tỉnh Bến Tre giai đoạn 2020-2025 và định hướng đến 2030; trong đó, dừa được xác định là cây trồng chính.
Cụ thể, Bến Tre đặt mục tiêu đến 2025, phát triển 20.000 ha vùng nguyên liệu dừa hữu cơ và 100 ha dừa uống nước, tập trung liên kết với doanh nghiệp trên địa bàn các huyện Mỏ Cày Nam, Mỏ Cày Bắc, Châu Thành, Giồng Trôm, Thạnh Phú, Ba Tri.
Nâng cao sức cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản Xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản nửa đầu năm 2022 đạt nhiều kết quả tích cực, song cũng như nhiều ngành, lĩnh vực khác, các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu nông sản đã và đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn cần được tháo gỡ. Đây là nội dung được các chuyên gia tập trung...