Phát triển thị trường lao động bền vững, đảm bảo an sinh xã hội
Hội thảo chuyên đề “Phát triển thị trường lao động bền vững, bảo đảm an sinh xã hội trong phát triển kinh tế – xã hội” đã diễn ra sáng 17/12, tại Hà Nội.
Hội thảo nằm trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế Việt Nam lần thứ 5 do Ban Kinh tế Trung ương phối hợp Chính phủ đồng chủ trì tổ chức.
Hội thảo chuyên đề “Phát triển thị trường lao động bền vững, bảo đảm an sinh xã hội trong phát triển kinh tế – xã hội”. Ảnh: Thành Trung
Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có biến động nhanh, phức tạp, khó dự báo, hoạt động sản xuất kinh doanh tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức. Nội dung, chủ đề của Hội thảo có ý nghĩa hết sức quan trọng về chính trị, kinh tế – xã hội, góp phần triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Hội thảo nhận được sự hưởng ứng, quan tâm và đánh giá cao của các cơ quan hoạch định chủ trương, chính sách, các cơ quan quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô, các địa phương, cũng như của cộng đồng doanh nghiệp, người dân.
Tại Hội thảo, các đại biểu tập trung thảo luận, đánh giá kết quả đạt được của thị trường lao động trong những năm qua, đồng thời thẳng thắn nhìn nhận tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức và những vấn đề đang đặt ra hiện nay để có các giải pháp phù hợp.
Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Ngọ Duy Hiểu cho hay, từ tháng 9 đến nay đã xảy ra tình trạng nhiều doanh nghiệp ở các ngành nghề, địa phương, đặc biệt ngành dệt may, da giày, chế biến gỗ, điện tử gặp khó khăn, bị thiếu, cắt giảm đơn hàng, dẫn đến hàng trăm ngàn người lao động bị giảm giờ làm, mất việc, ảnh hưởng nghiêm trọng tới thu nhập, đời sống của một bộ phận người lao động và gia đình họ.
Theo ông Ngọ Duy Hiểu, số lượng người nhận bảo hiểm thất nghiệp 10 tháng 2022 tăng khá mạnh so với cùng kỳ 2021. Thống kê tại 4 tỉnh, thành phố phía Nam cho thấy, Thành phố Hồ Chí Minh tăng 25,88%, Bình Dương tăng 39,08%, Đồng Nai tăng 54,69% và Tiền Giang tăng 66,5%.
Theo tổng hợp của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tại các doanh nghiệp đã thành lập công đoàn cơ sở, từ tháng 9/2022 cho đến hết ngày 10/12/2022 đã có 1.242 doanh nghiệp (tại 44 tỉnh, thành phố) gặp khó khăn, bị cắt giảm đơn hàng nên phải giảm giờ làm của 482.120 người lao động. Trong đó, giảm giờ làm hoặc đang ngừng việc có hưởng lương là 433.908 người, chiếm 90% tổng số người bị ảnh hưởng; tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương là 6.570 người, chiếm 1,36%; chấm dứt hợp đồng lao động với 41.642 người, chiếm 8,64% tổng số người bị ảnh hưởng.
Số lao động bị ảnh hưởng trên phần lớn ở các doanh nghiệp FDI (chiếm 75% tổng số lao động bị ảnh hưởng), tập trung trong 3 ngành dệt may, da giầy, chế biến gỗ (chiếm 77% tổng số lao động bị ảnh hưởng); chủ yếu ở các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam.
Video đang HOT
Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nhấn mạnh, tình trạng doanh nghiệp bị cắt giảm đơn hàng, người lao động bị mất việc làm hoặc giảm việc làm để lại hệ lụy rất lớn, nhất là thời điểm Tết Nguyên đán đến gần.
Ông Ngọ Duy Hiểu nhận định, tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp còn gặp khó khăn, đơn hàng sẽ tiếp tục bị cắt giảm có thể hết quý I, thậm chí quý II/2023 dẫn đến nhiều người lao động bị thiếu, mất việc làm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thu nhập, đời sống. Theo tổng hợp từ các công đoàn cơ sở, dự kiến trong tháng 12 và những tháng đầu năm 2023, sẽ có 667 doanh nghiệp tiếp tục thực hiện giảm giờ làm của 271.736 lao động và 88 doanh nghiệp có kế hoạch cắt giảm 15.769 lao động.
Toàn cảnh Hội thảo. Ảnh: Thành Trung
Trước tình hình trên, các cấp công đoàn đã đã nhanh chóng vào cuộc và triển khai nhiều biện pháp nhằm giảm bớt khó khăn cho người lao động. Các cấp công đoàn đã chủ động nắm kịp thời tình hình khó khăn, thiếu, cắt giảm đơn hàng của các doanh nghiệp, số lượng người lao động bị giảm thời giờ làm việc, mất việc làm; tư vấn, giới thiệu việc làm, đào tạo nghề cho người lao động bị mất việc làm.
Bên cạnh đó tham gia, đề xuất với doanh nghiệp xây dựng phương án nghỉ Tết, trả lương, trả thưởng và công bố trước khi nghỉ Tết ít nhất 20 ngày; đề xuất tham gia, đối thoại, thương lượng với người sử dụng lao động xây dựng phương án sử dụng lao động, tăng cường đào tạo, đào tạo lại để tiếp tục sử dụng người lao động; trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động thì phải đảm bảo quyền lợi của người lao động theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, nhằm giảm bớt khó khăn cho người lao động, giữ được nguồn nhân lực có tay nghề, góp phần ổn định thị trường lao động, sẵn sàng cho giai đoạn tái phục hồi trong năm 2023, Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho rằng cần nhiều giải pháp đồng bộ, vừa hỗ trợ trong ngắn hạn giúp người lao động vượt khó, ở lại thị trường hoặc sớm trở lại thị trường, vừa hỗ trợ trong dài hạn nhằm tăng cường khả năng thích nghi, khả năng chống chịu cho người lao động trước khủng hoảng, biến động của thị trường.
Cụ thể là cần tăng cường cung cấp thông tin về thị trường lao động, triển khai các hình thức, phương thức giúp người lao động dễ tiếp cận thông tin tuyển dụng, với các nguồn tuyển dụng uy tín, các doanh nghiệp, tổ chức đang cần tuyển việc làm. Ngoài ra, tiếp tục thực hiện các chính sách đã ban hành hỗ trợ người lao động, chính thức hơn các chính sách tạm thời, bảo đảm việc làm, thu nhập và an sinh lâu dài cho người lao động; tiếp tục có gói hỗ trợ lãi suất tiền vay cho các doanh nghiệp bị thiếu đơn hàng để doanh nghiệp trả lương cơ bản giữ chân người lao động, đào tạo, đào tạo lại người lao động, tái cơ cấu doanh nghiệp, chuyển đổi vị trí việc làm trong doanh nghiệp…
Về lâu dài cần có chính sách thu hút đầu tư và tiền lương thỏa đáng giúp người lao động sau một thời gian làm việc phải có tích lũy ở mức cần thiết để khi gặp khó khăn, họ vẫn có tiền duy trì cuộc sống. Bên cạnh đó phải mở rộng chính sách về bảo hiểm xã hội nhằm đủ sức hỗ trợ người lao động trong lúc khó khăn. Chính phủ chỉ đạo các tỉnh, thành phố có nguồn dự phòng cho hoạt động của doanh nghiệp nói chung, trong đó có hỗ trợ người lao động trong thời điểm mất việc.
Nhiều ý kiến cho rằng, nhằm duy trì việc làm bền vững, đưa thị trường lao động trở lại ổn định, cần tiếp tục thực hiện kịp thời, có hiệu quả các chính sách hỗ trợ người lao động, doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 nhằm giúp các doanh nghiệp sớm khôi phục sản xuất. Bên cạnh đó, tập trung tháo gỡ khó khăn về cơ chế, chính sách cho các doanh nghiệp; cải cách quy trình, thủ tục để doanh nghiệp tiếp cận các chính sách hỗ trợ đơn giản, thuận tiện, kịp thời nhằm kích thích nền kinh tế, cũng như nhu cầu sử dụng lao động.
Tập trung tháo gỡ vướng mắc về đầu tư công
Tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam sáng 17/12 do Chính phủ và Ban Kinh tế Trung ương tổ chức, đại diện các bộ ngành, địa phương đã chỉ ra nhiều điểm nghẽn trong đầu tư công trong bối cảnh nhiều tác động từ những yếu tố bên ngoài.
Những nút thắt này cần được sớm tháo gỡ, khơi thông để làm tiền đề dẫn dắt tăng trưởng trong môi trường nhiều bất định năm 2023.
Một góc Quận 2 với xa lộ Hà Nội và tuyến Metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên. Ảnh minh họa: Thanh Vũ/TTXVN
Nhiều điểm nghẽn
Chia sẻ tại diễn đàn, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Quốc Phương cho hay, kế hoạch đầu tư công năm nay được thực hiện trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, nhiều thay đổi nhanh, mạnh cùng những yếu tố mới xuất hiện, nằm ngoài dự báo. Đồng thời, 2022 cũng là năm đầu tiên triển khai kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 nên cần thời gian hoàn thiện thủ tục đầu tư dự án, năm có số vốn cần giải ngân khá lớn, tăng 26%, tương đương 120.000 tỷ đồng, so với kế hoạch năm 2021.
Tại các hội nghị trực tuyến giải ngân, các cuộc họp của tổ công tác, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương cũng nêu khá chi tiết các nguyên nhân làm chậm tiến độ giải ngân vốn đầu tư công. Có nguyên nhân khách quan và chủ quan, có những nguyên nhân tồn tại trong nhiều năm, có những nguyên nhân mang tính đặc thù của từng năm kế hoạch. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã báo cáo, tổng hợp 3 nhóm nguyên nhân chủ yếu, gồm nhóm thể chế, chính sách pháp luật; nhóm khó khăn liên quan đến tổ chức triển khai, thựchiện.
Theo đại diện UBND Tp. Hồ Chí Minh, với đặc thù là địa phương có quy mô và độ mở kinh tế lớn, nhu cầu đầu tư và tổng mức ngân sách nhà nước dành cho đầu tư công thuộc nhóm các địa phương đứng đầu cả nước, Thành phố Hồ Chí Minh cũng gặp phải những tồn tại, những điểm nghẽn trong giải ngân vốn đầu tư công.
Về phía khách quan, diễn biến bất lợi liên quan đến đại dịch Covid-19 dẫn đến việc chuẩn bị đầu tư các dự án trong năm 2021 (thực hiện các bước trong thủ tục bồi thường, thực hiện các thủ tục về xây dựng,...) bị ngưng trệ. Vẫn còn một số vướng mắc khi thực thi các quy định liên quan đến nguồn vốn đầu tư công, vốn ODA như về thẩm quyền, quy trình thực hiện các nội dung điều chỉnh, còn vênh giữa Luật Đầu tư công, Luật đất đai, Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu, các quy định liên quan thực hiện các dự án ODA.
Ngoài ra, đại diện UBND Tp. Hồ Chí Minh cũng cho hay, số lượng dự án chuyển tiếp từ giai đoạn trước của Thành phố tương đối lớn (trong trung hạn giai đoạn 2021-2025 có 3.605 dự án chuyển tiếp số vốn bố trí hơn 103.047 tỷ đồng), rất nhiều trong số đó là các dự án có khó khăn trong quá trình triển khai tại giai đoạn trước, tạo áp lực lên công tác giải ngân giai đoạn trung hạn này. Cùng đó, công tác bồi thường của Thành phố chậm cũng kéo theo công tác xây lắp chậm, do không có mặt bằng để thi công, dẫn tới giảm khối lượng giải ngân vốn trong năm.
Cũng theo chia sẻ từ ông Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu Xây dựng Việt Nam, từ đầu năm 2022 và tiếp đến cả năm 2023, chủ trương của Chính phủ Việt Nam là tập trung đẩy mạnh đầu tư công để phục hồi & phát triển kinh tế, quyết tâm rất cao của Chính phủ thể hiện rất rõ là nguồn vốn luôn sẵn sàng, đồng thời luôn đôn đốc quyết liệt các Bộ, ngành, địa phương thực hiện chỉ tiêu kế hoạch giải ngân vốn đầu tư công. Nhưng kế hoạch giải ngân đầu tư công vẫn không đáp ứng được yêu cầu khi đến 30/11/2022 giải ngân kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước là 338.000 nghìn tỷ chỉ đạt 58,33% kế hoạch năm. Đây thật sự là một vấn đề đáng ngạc nhiên bởi có tiền mà không tiêu được.
Theo ông Hiệp, nguyên nhân có từ 2 góc độ, Thủ tục đầu tư và thanh quyết toán của các dự án còn có một số vấn đề cần khắc phục, tháo gỡ. Ngoài ra, liên quan trực tiếp đến các nhà thầu xây dựng, hiện các nhà thầu đang rất khó khăn, vướng mắc - đó là vấn đề đơn giá, định mức. Điều này khiến nhiều doanh nghiệp xây dựng e ngại, không tham gia nhận thầu các công trình vốn đầu tư công.
Quyết liệt khắc phục những tồn tại
Từ những khó khăn trên, ông Nguyễn Quốc Hiệp cho rằng, cần có biện pháp rốt ráo để đầu ra của vốn ngân sách ở các dự án đầu tư công được lưu thông nhanh chóng. Cụ thể như nhanh chóng điều chỉnh và bổ sung hệ thống đơn giá định mức hiện nay; có kế hoạch rà soát phân loại các đơn giá, định mức để có kế hoạch bổ sung ngay trong quý 1/2023 cho kịp triển khai các dự án hiện nay; bổ sung ngay các định mức chuyên ngành giao thông vào hệ thống định mức xây dựng làm cơ sở áp dụng cho các gói hạ tầng.
Cùng đó, có quy trình phân cấp, phân quyền cụ thể và quy định rõ ràng cho các Ban Quản lý dự án, Chủ đầu tư để xử lý việc điều chỉnh, giải quyết các việc phát sinh, điều chỉnh các gói thầu song song với việc tập trung cải thiện chất lượng hồ sơ khảo sát, thiết kế, dự toán của các gói thầu.
Theo báo cáo của Tp. Hồ Chí Minh, dự kiến tỷ lệ giải ngân kết quả đầu tư công năm 2022 của Thành phố đạt khoảng 86% tổng số vốn giao. Với kết quả này tuy chưa đạt được như kỳ vọng nhưng so với năm 2021 thì số vốn đã giải ngân trong năm 2022 cao hơn gấp 1,6 lần năm 2021 ((năm 2022 là 32.218,759 tỷ đồng, năm 2021 là 19.721,157 tỷ đồng). Trong năm 2023, mức vốn Kế hoạch đầu tư công của Thành phố Hồ Chí Minh được Trung ương phân bổ là hơn 70 nghìn tỷ đồng, cao gần gấp 2 lần so với mức vốn đầu tư công được Thành phố đã triển khai trong năm 2022. Đây là một thách thức rất lớn đối với công tác điều hành và giải ngân vốn.
Nhằm khắc phục các tồn tại, các điểm nghẽn trong đầu tư công Thành phố Hồ Chí Minh dự kiến sẽ đẩy mạnh phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc dự thảo Nghị quyết về cơ chế, chính sách thí điểm tạo động lực phát triển Thành phố Hồ Chí Minh; trong đó, có đề xuất nhiều cơ chế mạnh mẽ để nâng cao hiệu quả đầu tư công và xã hội hóa đầu tư. Một trong số đó là cho phép HĐND Thành phố được chủ động bố trí ngân sách địa phương nguồn chi đầu tư phát triển để phân bổ cho các dự án đầu tư công trong kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm trên cơ sở khả năng thu ngân sách thực tế.
Để thực hiện thành công kế hoạch đầu tư công năm 2023, đòi hỏi tinh thần đổi mới, quyết tâm chính trị cao, trách nhiệm hơn nữa của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương. Nhấn mạnh tại diễn đàn, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Quốc Phương cho rằng, sớm rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động các dự án đầu tư công, trước tiên là sửa ngay các bất cập đã phát hiện trong năm 2022 nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Cùng đó, triển khai quyết liệt, hiệu quả các giải pháp khắc phục hạn chế, bất cập, chấn chỉnh khâu chuẩn bị đầu tư, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công; đẩy nhanh tiến độ một số công trình hạ tầng giao thông quan trọng, trọng điểm quốc gia, có tính liên vùng, hạ tầng đô thị lớn, các dự án đường sắt đô thị, hạ tầng văn hóa, xã hội.
Đặc biệt, cần tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong đầu tư công, xác định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan, xử lý nghiêm vi phạm theo quy định; kiểm soát chặt chẽ mục tiêu, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư; bảo đảm công bằng, công khai, minh bạch thông tin, phòng chống tham nhũng, lãng phí và lợi ích nhóm trong đầu tư công.
Ký kết quy chế phối hợp thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội Chiều 22-6, Bảo hiểm xã hội tỉnh và UBND TP. Thái Nguyên tổ chức Hội nghị ký kết quy chế phối hợp chính sách pháp luật bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp (BHXH, BHYT, BHTN). Lãnh đạo Bảo hiểm Xã hội tỉnh và UBND TP. Thái Nguyên ký kết quy chế phối hợp. Theo nội dung ký...