Phần nhiều bệnh nhân gút chữa trị khi quá muộn
60% bệnh nhân chuyển sang mạn tính, số khác suy giảm chức năng gan thận khi đến gặp bác sĩ. Thông tin vừa được các bác sĩ chuyên khoa tại TP HCM công bố sau 5 năm tiếp xúc điều trị bệnh này.
Bàn chân biến chứng của một bệnh nhân gút nhập viện muộn. Ảnh: Cao Lâm.
Giáo sư – tiến sĩ Hoàng Khải Lập, Phó Viện Nghiên cứu bệnh gút cho biết, khi đến điều trị, rất nhiều bệnh nhân thậm chí đã chuyển sang tiểu đường, bệnh mạch vành, viêm loét dạ dày, tá tràng do dùng thuốc chống viêm giảm đau kéo dài.
“5% đã bị biến chứng nặng như phù nề, giữ nước, loãng xương, các khớp bị phá hủy gây biến dạng khớp, suy thận ở các mức độ khác nhau, tophi vỡ để nhiễm trùng kéo dài do suy giảm hệ thống miễn dịch”, ông Lập nói.
Theo nhận xét của các bác sĩ, nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên một phần do bệnh diễn tiến âm thầm, phần khác do bệnh nhân “điều trị cẩu thả”.
“Vấn đề không phải do không có thuốc tốt để kiểm soát các cơn gút cấp tái phát, mà do sự chủ quan của nhiều bệnh nhân trong dùng thuốc, cẩu thả trong sinh hoạt ăn uống để bệnh tiến triển nặng”, ông Lập nói.
Video đang HOT
Bác sĩ Nguyễn Hồng Thu, nguyên giám đốc Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình TP HCM, cho biết, hiện các bệnh viện tại TP HCM chưa có một khoa chuyên điều trị gút nên bệnh nhân thường có xu hướng tự tìm thuốc điều trị.
“Việc tùy tiện sử dụng thuốc không có chỉ dẫn của bác sĩ trong một thời gian dài có thể làm cho tình trạng sức khỏe của bệnh nhân trở nên trầm trọng hơn”, bác sĩ Thu nói.
Để ngăn các biến chứng nguy hiểm dẫn đến điều trị vừa khó khăn vừa tốn kém, bác sĩ Thu khuyên người bệnh đến bác sĩ để được chẩn đoán và điều trị sớm khi có các dấu hiệu viêm, sưng, nóng da, tấy đỏ, đau khớp.
Nguyên nhân trực tiếp gây bệnh gút là axit uric. Người có axit uric máu cao nên kiêng hoặc hạn chế các thực phẩm chứa nhiều nhân purin như phủ tạng động vật (gan, thận, não, tụy…), các loại thịt có màu đỏ, các loại hải sản, nấm, đậu… Không dùng các đồ ăn thức uống có tính kích thích như trà đặc, cà phê, rượu trắng, hạt tiêu, hồi, quế, ớt.
Theo vietbao
Biếng ăn, suy giảm miễn dịch do thiếu kẽm và selen
Thiếu kẽm và selen sẽ gây biếng ăn do rối loạn vi giác, làm suy thoái quá trình phát triển và tăng trưởng bình thường ở trẻ.
Tình trạng thiếu kẽm và selen ở trẻ em đang là vấn đề sức khỏe cộng đồng ở nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Theo đó, trên 50% trẻ từ 6 tháng đến 7 tuổi thiếu kẽm huyết thanh và selen tương đối. Nhóm gặp nguy cơ cao nhất là các bé từ 6 tháng đến 17 tháng tuổi và trẻ gặp vấn đề về suy dinh dưỡng, tiêu chảy. Một số nghiên cứu khác cũng đưa ra những con số báo động khi hàm lượng selen huyết thanh thấp ở học sinh THCS là 15,9%, học sinh tiểu học là 75,6%, và trẻ mẫu giáo, mầm non 62,3%.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng: 26,5% trẻ từ 11 đến 17 tuổi thiếu kẽm 50%-90% trẻ bị suy dinh dưỡng kéo dài thiếu kẽm 51,9% trẻ từ 6 tháng đến 75 tháng tuổi thiếu kẽm 15,9% trẻ em từ 11 đến 17 tuổi thiếu Selen 75,6% trẻ em cấp 1 thiếu Selen 62,3% trẻ em từ 12 đến 72 tháng tuổi ở nông thôn thiếu Selen.
Kẽm giúp duy trì, bảo vệ các tế bào vị giác và khứu giác. Vì thế thiếu kẽm sẽ gây biếng ăn do rối loạn vi giác, làm suy thoái quá trình phát triển và tăng trưởng bình thường ở trẻ. Kẽm tham gia vào thành phần của trên 300 enzym kim loại. Nó còn là chất xúc tác không thể thiếu của ARN-polymeraza, có vai trò quan trọng trong quá trình nhân đôi AND, tổng hợp protein, thúc đẩy quá trình sinh tổng hợp và điều hòa chức năng của trục hormone dưới đồi như GH (Growth hormone), IGF-I - những hormone tăng trưởng và kích thích tăng trưởng.
Selen cần cho chuyển hóa i-ốt và có chức năng như một loại enzyme trong quá trình tạo hormone tuyến giáp nhằm kích thích đầu vào năng lượng, cần thiết cho sự tăng trưởng, phát triển và duy trì. Thiếu kẽm làm tổn thương chức năng miễn dịch, tăng nguy cơ mắc các bệnh nhiễm khuẩn, từ đó khiến trẻ giảm phát triển, tăng nguy cơ bị suy dinh dưỡng và tử vong. Trong một nghiên cứu tại Mỹ, việc bổ sung kẽm cho trẻ giúp giảm 18% trường hợp tiêu chảy, 41% viêm phổi và trên 50% trường hợp tử vong.
Thiếu Selen gây ức chế khả năng đề kháng chống nhiễm trùng, hậu quả của suy giảm chức năng bạch cầu và tuyến ức bởi selen đóng vai trò thiết yếu trong men Glutathione peroxidase. Nó ảnh hưởng tới mọi thành phần của hệ miễn dịch, sự phát triển và hoạt động của bạch cầu.
Thiếu kẽm, dấu hiệu thường thấy là ăn không ngon, vị giác bất thường, rụng tóc, tiêu chảy kéo dài, thương tổn ở da và mắt, chậm lớn, cơ quan sinh dục chậm trưởng thành, sụt cân, thiếu máu, chậm lành vết thương và kém minh mẫn.
Thiếu selen ở mức trầm trọng có liên quan đến bệnh Keshan, một bệnh loạn ở tim và tổn thương cơ tim nặng nề. Bệnh xuất hiện chủ yếu ở trẻ em và phụ nữ trong tuổi sinh đẻ thiếu ở mức độ nhẹ thường khó thấy các triệu chứng đặc biệt. Tuy nhiên, nó góp phần làm xuất hiện các tổn hại tế bào quan trọng cũng như thúc đẩy quá trình lão hóa và nguy cơ mắc các bệnh thoái hóa. Đặc biệt, việc thiếu selen trong chế độ ăn lâu dài khiến người lớn và trẻ nhỏ có nguy cơ bị ung thư, bệnh tim và suy giảm miễn dịch.
Trẻ em rất cần bổ sung kẽm và selen. Theo khuyến nghị, bé dưới một tuổi nên được bổ sung khoảng 5 mg một ngày trẻ 1-10 tuổi khoảng 10 mg một ngày thanh thiếu niên và người trưởng thành khoảng 15 mg một ngày đối với nam và 12 mg một ngày đối với nữ.
Ngoài ra, trẻ 0-6 tháng có nhu cầu selen là 6 mcg một ngày trẻ 7-12 tháng là 10 mcg một ngày trẻ 1-3 tuổi là 17 mcg một ngày trẻ 4-9 tuổi khoảng 20 mcg một ngày đối với thanh thiếu niên 10-18 tuổi nhu cầu là 26 mcg một ngày ở nữ và 32 mcg một ngày ở nam.
Nguồn cung cấp kẽm và selen cho cơ thể có trong nhiều loại thực phẩm. Trong đó, thức ăn nhiều kẽm là tôm đồng, lươn, hàu, sò, gan lợn, sữa, thịt bò, lòng đỏ trứng, cá, đậu nành, các hạt có dâu (hạnh nhân, hạt điêu, đâu phông..). Với trẻ nhũ nhi, để có đủ kẽm, bạn nên cố gắng cho bé bú mẹ vì chất này trong sữa mẹ dễ hấp thu hơn nhiều so với sữa bò. Lượng kẽm trong sữa mẹ ở tháng đầu tiên là cao nhất (2-3 mg/lít), sau 3 tháng thì giảm dần còn 0,9 mg/lít. Lượng kẽm mà người mẹ mất qua sữa trong 3 tháng đầu ước tính khoảng 1,4 mg một ngày. Do đó, bạn cần ăn nhiều thực phẩm giàu chất này để có đủ cho cả hai mẹ con.
Ngoài kẽ, hàm lượng selen cũng có nhiều trong cá, hải sản (20,8 - 40,5 mcg/100 gram) và trứng (40,2 mcg-14,9 mcg/100 gram), vừa phải ở thịt gia cầm, đậu hạt và thấp ở sữa bò, ngũ cốc, rau và hoa quả.
Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Thị Lâm
Phó Viện trưởng, Viện dinh dưỡng Quốc gia
Công nghệ Bioenrich giúp tăng hàng nghìn lần hàm lượng khoáng vi lượng như kẽm, selen, sắt, ... trong mầm các loại đỗ. Gần đây, Công ty CP Biolife đã cho ra đời sản phẩm UpKid từ công nghệ Bioenrich (www.biolife.vn) điều khiển quá trình nảy mầm của hạt đỗ xanh giúp chuyển hóa với hiệu suất tối đa khoáng chất vi lượng kẽm và selen vô cơ sang cấu trúc hữu cơ tự nhiên thân thiện với cơ thể của trẻ nhỏ, tăng khả năng hấp thu hoàn toàn tới 90%, không để lại dư thừa trong cơ thể.
Theo VNE
Bệnh phong thấp với tuổi già Người cao tuổi (NCT) tạng thận bắt đầu hư suy, nguyên khí từ đó bắt đầu suy giảm. Theo Cảnh Nhạc toàn thư: "Mệnh môn là gốc của nguyên khí. Âm khí của ngũ tạng không có nó thì không thể tu dưỡng, dương khí của ngũ tạng không có nó thì không thể phát triển...". Từ đó suy ra thận khí suy...