Ông Lê Đăng Doanh: “Cuộc sống luôn mạnh hơn mọi giáo điều”
“Cỏ May xin đăng ký kinh doanh về ngành sản xuất gạo. Họ nộp đơn lên Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Sau hàng tháng đợi chờ, vẫn không có hồi âm. Cỏ May lúng túng hỏi chuyên gia, và được khuyên: Hãy thử xin ở Singapore!”
Chỉ vài tiếng đồng hồ, mọi thủ tục hoàn tất, và Cỏ May chính thức hoạt động ở Singapore. Nhập lúa từ Việt Nam, chế biến thành gạo phẩm chất cao, và bán trong các siêu thị tại Singapore.
Câu chuyện này đã được TS Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương và hiện là thành viên Ủy ban Chính sách Phát triển của Liên Hợp Quốc kể tại Hội thảo “30 năm đổi mới: Thành tựu, Bài học và Triển vọng”, hôm 8/10 vừa qua.
Theo quan sát của ông Doanh, từ khi Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) được thành lập đến nay có rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam đăng ký hoạt động ở Singapore và Thái Lan, những nơi có môi trường kinh doanh tốt hơn nhiều so với Việt Nam.
TS Lê Đăng Doanh. Ảnh: Ngô Vương Anh
“Điều đó tốt cho các công ty đó, nhưng là một thách thức lớn cho Việt Nam, bởi bao nhiêu thuế má và việc làm được tạo ra Singapore và Thái Lan được hưởng tất”, TS Doanh lưu ý.
Những câu chuyện mà TS. Lê Đăng Doanh vừa kể chỉ là một trong những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt sau 30 năm đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Còn vô vàn những thách thức khác trong hành trình tới phồn vinh mà chúng ta không có cách nào né tránh được, buộc phải đối diện và tìm cách vượt qua.
Cho đến nay, mô hình kinh tế thị trường mà Việt Nam đã xây dựng vẫn còn chưa hoàn thiện. Để minh chứng cho đúc kết này, TS Doanh đưa ra vài dẫn chứng cụ thể:
Thứ nhất, đất đai và tài nguyên thiên nhiên được coi là “sở hữu toàn dân”, tức là không có chủ sở hữu cụ thể, dẫn đến thực trạng một số quan chức tham lam đã lạm dụng quyền lực để thu lợi bất chính. Chẳng hạn như chênh lệch quá cao giữa giá đến bù đất cho nông dân với giá đất xây dựng.
Video đang HOT
Hay việc thuê đất, giao đất không dựa trên hợp đồng tự nguyện giữa người dân và doanh nghiệp, mà thông qua biện pháp hành chính, cưỡng chế, gây ra bất bình trong xã hội. Hoặc hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên, rừng và đất rừng được chuyển giao cho danh nghiệp khai thác cũng còn thiếu công khai minh bạch, tạo ra miếng đất màu mỡ cho quan chức suy thoái tham nhũng.
Thứ hai, tín dụng lãi suất vẫn còn được điều hành bằng biện pháp hành chính, phần lớn tín dụng được giao cho các tập đoàn và tổng công ty nhà nước với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường. Kết quả là nguồn lực được phân bổ không hiệu quả, doanh nghiệp nhà nước sử dụng nhiều vốn nhưng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng.
Thứ ba, nhà nước vẫn còn can thiệp vào thị trường ở các cấp khác nhau, tạo cơ hội cho lợi ích nhóm phát triển. Nhà nước duy trì độc quyền ở nhiều sản phẩm và dịch vụ chưa có cơ chế kiểm soát hiệu quả, làm môi trường kinh doanh kém lành mạnh, tạo cơ hội cho một số đối tượng giàu lên nhanh chóng, trong khi số đông doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa vật vã mãi chưa lớn lên được. Chính vì vậy, sau một thời gian tăng trưởng ngoạn mục, kinh tế Việt Nam lại rơi vào tình trạng bất ổn, bội chi ngân sách cao, nợ công tăng, và tốc độ tăng trưởng giảm sút, TS Doanh kết luận.
Thứ tư, chi thường xuyên còn cao do bộ máy công kềnh. Theo ông Doanh, cần tái cơ cấu ngân sách toàn diện gắn liền với tái cơ cấu bộ máy, thiết lập kỷ luật ngân sách nghiêm minh, công khai, minh bạch, gắn liền với trách nhiệm giải trình và trách nhiệm cá nhân để tiết kiệm chi tiêu.
Bên cạnh đó còn có cả mối lo nợ công (năm 2015 đạt 63% GDP và đụng trần nợ công), chiếm tỷ lệ chi trả khá cao làm cho cân đối ngân sách trở nên khó khăn.
“Tất cả những thách thức kể trên muốn khác phục và vượt qua đều cần một cải cách duy nhất: cải cách thể chế”, TS Doanh đúc kết sau khi rút ra 4 vấn đề lớn đang góp phần kìm hãm con đường đưa Việt Nam tới phồn vinh.
Cải cách thể chế – đổi mới lần 2
Ông Doanh cho rằng, “tình hình trong nội bộ nền kinh tế Việt Nam và các cam kết hội nhập quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện sớm những cải cách thể chế cơ bản và có hệ thống, thay vì những cải cách cục bộ, từng mặt, từng bộ phận như cho đến nay”.
Xem ra con đường đã được khai thông bởi, trong chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội 2011-2020, được Đại hội XI thông qua đã đề ra yêu cầu cải cách chính trị. Cụ thể như sau: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa…
Văn bản này cũng xác định nghiêm túc rằng “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính” là khâu đột phá chiến lược số 1.
Tuy nhiên, TS Doanh không khỏi cảm giác tiếc nuối bởi những định hướng đúng đắn kể trên vẫn chưa được thực hiện nghiêm túc, rốt ráo trong khi thời gian trôi đi rất nhanh, láng giềng cũng chạy rất nhanh, còn chúng ta vẫn lề mề ở tít dưới xa.
Mặc dù ý thức rằng cuộc cải cách lần này chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn thậm chí có cả những chống đối quyết liệu từ những nhóm lợi ích vốn liên kết chặt chẽ với nhau nhằm thao túng chính sách quốc gia, tuy nhiên ông Doanh vẫn có niềm tin sắt đá rằng “cuộc sống luôn mạnh hơn mọi giáo điều”.
Theo Huỳnh Phan
Khủng hoảng thông tin: "Quả bom" công phá doanh nghiệp
Loạt bài về chim yến trên một tờ báo mạng đã gây thiệt hại nặng cho ngành sản xuất yến của nước ta.
Tin đồn trong xã hội, nhất là những thông tin trên mạng xã hội (MXH) đang trở thành "quả bom" công phá các doanh nghiệp. Các DN cần ứng phó như thế nào để xử lý khủng hoảng thông tin thất thiệt trong môi trường truyền thông số?
Cẩn thận trước "sự thật méo mó"
Với sự phát triển mạnh mẽ của truyền thông xã hội, tốc độ lan truyền của tin đồn luôn tỷ lệ thuận với tầm quan trọng và sự mập mờ của nó. Nguy cơ sai lệch thông tin trong tin đồn rất lớn, dẫn đến hậu quả khó lường, thậm chí mất kiểm soát thông tin. Từ đó dẫn đến khủng hoảng thông tin. Tuy vậy, tin đồn lại là nguồn tin cho các nhà báo thiếu kinh nghiệm và thiếu đạo đức nghề nghiệp. Nhiều thông tin chưa được kiểm chứng đã được "chính thống hóa" trên báo chí, ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín, danh dự và gây thiệt hại nghiêm trọng cho các doanh nghiệp (DN) - "nạn nhân" của tin đồn.
Ông Lê Quốc Vinh, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn truyền thông Lê (Le Group of Companies) trong hội thảo "Quản trị truyền thông và xử lý khủng hoảng trong bối cảnh truyền thông mạng xã hội" vừa được tổ chức tại Hà Nội nêu dẫn chứng: Năm 2015, loạt bài về chim yến trên một tờ báo mạng có nội dung về những con chim yến quay về tổ, thấy mất chim con, đau đớn lao mình vào vách đá. Máu của nó đã nhuộm đỏ những tổ yến, trở thành thứ yến huyết mà chúng ta ăn. Bài viết này đã lan tỏa mạnh mẽ trên MXH bởi nó quá đau thương, đánh vào tâm lý của con người. Sau đó, có bài viết của những chuyên gia về yến đã chỉ rõ đây là sự tiểu thuyết hóa, cường điệu hóa một cách phi lý, bởi người ta chỉ lấy tổ yến khi con chim yến đã rời tổ đi xây một tổ khác. Thế nhưng, đến nay, ngành sản xuất yến của ta vẫn gánh chịu hậu quả vô cùng lớn từ thông tin đó.
PGS.TS Nguyễn Thành Lợi, Tổng Biên tập Tạp chí Người làm báo cũng đưa ra một ví dụ điển hình về thực tế này. Đó là vụ tin đồn ăn nhiều bưởi gây ung thư vú năm 2007. Tin đồn này đã được đăng tải trên một số tờ báo khiến giá bưởi trên thị trường bị sụt giảm nghiêm trọng. Nhiều gia đình nông dân trồng bưởi bị khốn đốn, thiệt hại lớn về kinh tế. Dù các tờ báo, những nhà báo có liên quan đã bị xử phạt nhưng hậu quả mà người trồng bưởi phải gánh chịu lớn hơn rất nhiều.
Thực tế trên cho thấy, qua lăng kính của truyền thông (có thể cả truyền thông chính thống và truyền thông xã hội), ta có thể chỉ nhìn thấy một phần của sự thật, và hình ảnh đó có thể không phải là bản chất của sự việc.
3 giải pháp giúp DN xử lý khủng hoảng thông tin
Các DN cần chủ động ứng xử trước tin đồn, hoặc khủng hoảng thông tin để hạn chế thấp nhất mức thiệt hại. Khi xảy ra khủng hoảng thông tin, không phải DN nào cũng có cách ứng xử đúng đắn. "Một số tờ báo mạng nếu có sai sót trong nội dung thì gỡ luôn tin, bài. Hoặc các DN khi gặp vấn đề cũng gọi điện cho tòa soạn nhờ gỡ bài báo đó. Nhưng điều quan trọng và cách xử lý đúng đắn nhất là phải biết thừa nhận sai sót của mình", ông Lê Quốc Vinh nêu quan điểm.
Đồng tình với quan điểm này, PGS.TS Nguyễn Thành Lợi cho hay: "Về ứng xử với tin đồn trên MXH, một số DN bày tỏ: Chúng tôi rất ngại khi có tin đồn như vậy lại đi gọi cho công an, báo chí..., khác gì "vạch áo cho người xem lưng". Quan điểm của họ lúc này là "im lặng là vàng". Với cách ứng phó như vậy thì tin đồn càng mập mờ và lan truyền nhanh, tạo thành dư luận xã hội và nhanh chóng trở thành "sự thật" đối với công chúng. Đến lúc này, thiệt hại của DN khó có thể lường được".
Nhiều chuyên gia đã đưa ra các giải pháp để xử lý khủng hoảng thông tin trong thế giới số hiện nay. Thứ nhất, cần minh bạch thông tin để giảm thiểu rủi ro. Nếu DN xây dựng niềm tin thông qua việc minh bạch hóa thông tin thì đó là phương thức phòng thủ tốt nhất của DN trước những cơn sóng khủng hoảng thông tin.
Thứ hai, DN phải tích cực hợp tác với cơ quan chức năng và báo chí. Khi DN gặp vấn đề, thông thường rất ngại tiếp xúc với báo chí và tìm cách né tránh. Trong khi đó, điều cần thiết nhất lúc này là DN phải có sự kết nối và chia sẻ thông tin với báo chí để chiếm lĩnh không gian ảo, nắn dòng được thông tin sai lệch trên MXH.
Thứ ba, DN phải dám thừa nhận khủng hoảng đó và sẵn sàng sửa chữa sai lầm. DN không nên tìm cách gỡ tin, bài; né tránh cung cấp hay che giấu thông tin; can thiệp, mua chuộc báo chí mà có thể tổ chức họp báo để các cơ quan báo chí nhanh chóng nắm được thông tin và họ có thể đưa ra thông điệp quan trọng nhất cho DN. Bên cạnh đó, DN nhanh chóng, chủ động cập nhật thông tin trên chính website của mình để bác bỏ tin đồn. Nếu tin đồn quá nghiêm trọng thì DN cần mời các cơ quan điều tra vào cuộc.
Ông Lê Quốc Vinh chia sẻ thêm: "DN cũng phải tôn trọng quyền lợi của khách hàng, công chúng; Với những thông tin nhạy cảm, bí mật cũng nên thẳng thắn nói rõ đó là thông tin chúng tôi không thể cung cấp chứ không nên úp mở, bởi úp mở sẽ là nguyên cớ tạo thêm mối nghi ngờ"./.
Nam Phương
Theo_VOV
Sớm hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển công... Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cho rằng trong giai đoạn hiện nay, việc sớm hoàn thành các cơ chế, chính sách đồng bộ để phát triển công nghiệp hỗ trợ là yêu cầu cấp thiết, mang tính quyết định đến việc phát triển các ngành sản xuất then chốt của nền kinh tế. Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng làm việc với...