Ông Donald Trump và sự trở lại của ‘hoà bình thông qua sức mạnh’
Triết lý “hòa bình thông qua sức mạnh” đã trở lại trong chính sách đối ngoại của Mỹ dưới thời chính quyền Trump đầu tiên.
Với sự tái đắc cử lần này, ông Trump dự định tiếp tục chiến lược áp lực tối đa, hiện đại hóa quân đội, và củng cố liên minh quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích của nước Mỹ.
Ông Donald Trump phát biểu tại Maryland, Mỹ, ngày 24/2/2024. Ảnh: THX/TTXVN
Nhận định trên tạp chí Foreign Affairs, Robert C. O’brien, người từ đảm nhiệm chức vụ Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ từ năm 2019 đến năm 2021 cho rằng, “Si vis pacem, para bellum” là câu châm ngôn Latin có từ thế kỷ thứ 4, nghĩa là: “Nếu bạn muốn hòa bình, hãy chuẩn bị cho chiến tranh”. Câu nói này không chỉ tồn tại qua nhiều thế kỷ mà còn trở thành triết lý dẫn đường cho nhiều nhà lãnh đạo quốc gia về tầm quan trọng của sức mạnh quân sự trong việc duy trì hoà bình.
Một số tổng thống Mỹ như George Washington, Theodore Roosevelt và Ronald Reagan đã dựa vào triết lý này để xây dựng chính sách đối ngoại. Tổng thống Donald Trump, trong nhiệm kỳ đầu tiên, đã nối tiếp truyền thống này với một cách tiếp cận mà ông gọi là “ hoà bình thông qua sức mạnh”. Sự trở lại của triết lý này đán.h dấu một bước chuyển trong chính sách đối ngoại Mỹ sau thời chính quyền Obama. Chính quyền Trump đầu tiên không chỉ tập trung vào việc tăng cường quân sự mà còn đặt nặng yếu tố bảo vệ lợi ích quốc gia bằng sức mạnh.
Trên cơ sở đó, trong 16 tháng cuối nhiệm kỳ đầu tiên của ông Trump, Mỹ đã đạt được nhiều thành tựu ngoại giao. Đáng chú ý nhất là Hiệp định Abraham, mang lại hòa bình cho Israel và ba quốc gia láng giềng tại Trung Đông, mở ra một kỷ nguyên hợp tác mới trong khu vực này. Ngoài ra, Mỹ còn làm trung gian giúp Serbia và Kosovo bình thường hóa quan hệ kinh tế, đồng thời giải quyết rạ.n nứ.t giữa các quốc gia vùng Vịnh với Qatar. Đặc biệt, thỏa thuận với Taliban đã giúp ngăn chặn thương vong của quân đội Mỹ tại Afghanistan trong gần như toàn bộ năm cuối của nhiệm kỳ Trump 1.0.
Một thành công khác là việc tiê.u diệ.t lực lượng Nhà nước Hồi giáo (IS) và thủ lĩnh Abu Bakr al-Baghdadi. Chính quyền Trump đã kết thúc cuộc chiến với IS mà không mở rộng các cuộc xung đột mới, đán.h dấu lần đầu tiên Mỹ không tham gia một cuộc chiến tranh mới kể từ thời Tổng thống Jimmy Carter.
Video đang HOT
Sự trở lại của chiến lược “gây áp lực tối đa”
Khác với những lãnh đạo trước, ông Trump đã cố gắng hạn chế các cuộc chiến tranh không cần thiết. Dưới thời ông, Mỹ duy trì một thế đứng mạnh mẽ trước các đối thủ nhưng không tạo thêm xung đột. Trong suốt nhiệm kỳ, Nga không tiến xa hơn ở Ukraine sau khi sáp nhập Crimea năm 2014. Iran không tấ.n côn.g trực tiếp Israel, và Triều Tiên ngừng thử vũ khí hạt nhân sau các động thái ngoại giao kết hợp với biểu dương sức mạnh từ phía Mỹ. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn là đối thủ lớn trong thời gian ông Trump cầm quyền ở nhiệm kỳ đầu, nhưng ông Trump đã phản ứng mạnh mẽ khi cần thiết.
Với việc ông Trump tái đắc cử sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vừa qua, chúng ta có thể sẽ chứng kiến một cách tiếp cận mạnh mẽ hơn với chính sách “gây áp lực tối đa”. Cụ thể, ông Trump dự định áp đặt các mức thuế cao hơn đối với hàng hóa Trung Quốc và thực hiện các kiểm soát xuất khẩu để ngăn Bắc Kinh lợi dụng công nghệ Mỹ. Ông cũng dự định hợp tác với các đồng minh châu Á như Nhật Bản, Philippines, và Hàn Quốc nhằm đối phó với sự trỗi dậy từ Trung Quốc.
Tại Trung Đông, ông Trump sẽ tiếp tục chiến lược gây áp lực lên Iran, bao gồm áp đặt trừng phạt năng lượng nhằm ngăn cản nước này hỗ trợ cho các phong trào dân quân thân Tehran trong khu vực.
Cùng với đó, ông Trump hiểu rằng một nền hòa bình thực sự không thể có được nếu quân đội Mỹ không duy trì sức mạnh. Trong nhiệm kỳ đầu tiên, ông đã tăng cường hải quân và lực lượng phòng thủ quốc gia, giúp quân đội Mỹ có đủ sức mạnh để bảo vệ lợi ích của Washington trên toàn cầu. Ông cũng đã yêu cầu các đồng minh NATO và các quốc gia châu Á phải đóng góp nhiều hơn cho quốc phòng, từ đó xây dựng một mạng lưới liên minh mạnh mẽ.
Có thể dự báo, sau khi trở lại Nhà Trắng, ông Trump sẽ tiếp tục các nỗ lực hiện đại hóa quân đội, tăng cường hợp tác với các đồng minh và đối tác quan trọng, đồng thời duy trì một lực lượng vũ trang mạnh để đối phó với các thách thức trong tương lai. Ông Robert C. O’brien lưu ý rằng “sức mạnh” trong “hòa bình thông qua sức mạnh” theo quan điểm của ông Trump không phải là sự đ.e dọ.a hay hung hăng, mà là cách thể hiện quyết tâm bảo vệ lợi ích của quốc gia và tạo ra một thế đứng vững chắc để đàm phán hòa bình.
Liệu luật cấm có ngăn Mỹ rút khỏi NATO dưới thời ông Trump cầm quyền?
Mỹ đã ban hành luật cấm tổng thống đơn phương rút khỏi NATO, nhằm ngăn chặn mọi ý đồ rời khỏi liên minh, đặc biệt sau những ch.ỉ tríc.h gay gắt của Donald Trump, người vừa mới đắc cử tổng thống Mỹ.
Dù vậy, với quyền hạn tổng thống về đối ngoại, ông Trump vẫn có thể tìm cách lách luật, gây lo ngại cho tương lai của liên minh này.
Quốc kỳ các nước thành viên NATO tại trụ sở NATO ở Brussels, Bỉ. Ảnh: Kyodo/TTXVN
Theo tờ Politico ngày 9/11, sau chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ mới đây của ông Donald Trump, người nổi tiếng với những lời ch.ỉ tríc.h gay gắt nhằm vào Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), các chính trị gia Mỹ đã thông qua một đạo luật nhằm ngăn cản bất kỳ tổng thống nào đơn phương rút Mỹ khỏi liên minh này. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu luật đó có đủ mạnh để cản trở một quyết định quyết đoán từ ông Trump nếu ông tiếp tục muốn rời khỏi NATO.
Năm 2023, Thượng nghị sĩ Tim Kaine và Marco Rubio đã giới thiệu một điều khoản quan trọng trong Đạo luật Ủy quyền Quốc phòng Quốc gia, yêu cầu tổng thống cần sự đồng ý của hai phần ba Thượng viện hoặc một đạo luật của Quốc hội trước khi có thể rời NATO. Đạo luật này được Tổng thống Joe Biden ký thành luật vào cuối năm tài khóa 2024, chính thức ràng buộc bất kỳ tổng thống nào với những quy định pháp lý rõ ràng.
"Sau những lời đ.e dọ.a của ông Trump trong nhiệm kỳ đầu tiên, Quốc hội Mỹ đã hành động trên cơ sở lưỡng đảng để ngăn chặn bất kỳ tổng thống nào đơn phương rút khỏi NATO", Thượng nghị sĩ Chris Van Hollen cho biết. Ông nhấn mạnh rằng Quốc hội Mỹ sẽ tiếp tục nỗ lực bảo vệ NATO khỏi những mối đ.e dọ.a từ bên trong.
Theo các chuyên gia pháp lý, mặc dù luật này đặt ra giới hạn, nhưng ông Trump có thể tận dụng quyền hạn của tổng thống về chính sách đối ngoại để tìm cách lách luật. Scott Anderson, học giả của Viện Brookings, cho rằng đạo luật chỉ mở ra một cuộc xung đột trực tiếp với Quốc hội nếu tổng thống thực sự có ý định rời NATO. "Điều đó có nghĩa là Quốc hội nói với bạn rằng bạn không thể làm điều này. Nếu bạn phớt lờ Quốc hội, bạn sẽ phải đấu tranh tại tòa án về vấn đề này", ông Anderson nhận định.
Nhưng Giáo sư Curtis Bradley từ Đại học Chicago nhấn mạnh rằng, nếu ông Trump quyết định rút Mỹ khỏi NATO, không chắc liệu Quốc hội nước này có đủ tư cách pháp lý để kiện ông hay không. Theo luật Mỹ, những xung đột giữa các nhánh chính phủ thường được giải quyết qua quá trình chính trị, thay vì thông qua hệ thống tư pháp.
"Để vấn đề này được đưa ra xét xử, cần phải có bên có tư cách để kiện", ông Bradley cho biết, lưu ý rằng Quốc hội có thể là bên duy nhất có đủ điều kiện khởi kiện, nhưng không chắc các thành viên đảng Cộng hòa trong đó có đồng tình với vụ kiện hay không.
Do đó, chuyên gia Anderson cho rằng để tăng cường sức mạnh của luật, Quốc hội Mỹ có thể cần thêm vào các điều khoản rõ ràng cho phép kiện tụng trong trường hợp tổng thống phớt lờ luật.
Ngay cả khi không rút khỏi NATO, ông Trump vẫn có thể làm suy yếu liên minh này bằng nhiều cách khác. Các nghị sĩ đảng Dân chủ đã cảnh báo về khả năng ông Trump có thể từ chối cử đại sứ đến NATO hoặc ngăn cản quân đội Mỹ tham gia vào các cuộc tập trận chung. Những động thái như vậy sẽ làm suy giảm đáng kể cam kết của Mỹ với liên minh trên, khiến các thành viên khác của NATO phải hoài nghi về sự sẵn sàng của Mỹ trong việc bảo vệ các nước đồng minh.
Trước đây, ông Trump đã từng phớt lờ các yêu cầu của Quốc hội Mỹ trong việc rút khỏi các hiệp ước quốc tế. Vào năm 2020, ông Trump đã rút Mỹ khỏi Hiệp ước Bầu trời Mở - một hiệp ước an ninh quan trọng giữa các nước phương Tây và Nga - mà không tuân thủ yêu cầu thông báo trước 120 ngày do Quốc hội Mỹ đặt ra. Khi đó, Bộ Tư pháp Mỹ lý giải rằng tổng thống có quyền rút khỏi các hiệp ước quốc tế mà không cần thông qua Quốc hội, với lý do đây là một phần của thẩm quyền về đối ngoại.
Điều này cho thấy ông Trump và các cố vấn của mình có thể tìm cách sử dụng quyền hạn này để lách luật liên quan đến NATO, đặc biệt là nếu họ viện dẫn quyền tự quyết về các vấn đề đối ngoại của tổng thống.
Nếu Mỹ thực sự rời khỏi NATO, điều này không chỉ tác động đến an ninh của châu Âu mà còn gây ra một cuộc khủng hoảng niềm tin lớn trong NATO. Camille Grande, cựu Trợ lý Tổng thư ký NATO, cho rằng chỉ cần một thông báo về việc rút lui cũng có thể coi là tín hiệu của sự rời bỏ.
Ngoài ra, việc Mỹ rời NATO cũng đồng nghĩa với việc hơn 100.000 binh sĩ Mỹ hiện đang đóng quân tại châu Âu sẽ phải rút về, và Bộ Quốc phòng Mỹ cũng sẽ phải tìm cách rút khỏi cơ cấu chỉ huy quân sự của NATO - một vị trí mà Mỹ đã nắm giữ từ khi NATO được thành lập vào năm 1949.
Có thể nói, dù Quốc hội Mỹ đã thông qua luật nhằm ngăn chặn tổng thống đơn phương rút khỏi NATO, nhưng luật này không hoàn toàn đảm bảo ngăn cản được các động thái của ông Trump nếu ông thực sự muốn Washington rời liên minh. Trong bối cảnh xung đột Nga-Ukraine và sự leo thang căng thẳng giữa NATO với Moskva, sự ổn định của NATO đang phải đối mặt với những thách thức chưa từng có.
Iran kêu gọi ông Trump thay đổi chính sách 'sức ép tối đa' Iran đã thúc giục ổng thống đắc cử Donald Trump xem xét lại chính sách "gây sức ép tối đa" mà ông đã theo đuổi đối với Tehran trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình. Ông Donald Trump phát biểu tại Milwaukee, Wisconsin, Mỹ, ngày 18/7/2024. Ảnh: THX/TTXVN Theo hãng tin AFP, ngày 9/11, Phó Tổng thống Iran, Mohammad Javad Zarif đã thúc...