“Nước mắt lưng tròng” nghề khóc mướn
Từ cái chương “Hạnh phúc của một tang gia” (trích tiểu thuyết “Số Đỏ” – Vũ Trọng Phụng), người đọc đã lờ mờ nhận thấy một cái nghề rất đặc biệt trong xã hội thời đó: Nghề khóc mướn. Cứ ngỡ qua thời gian, nghề này nay đã mai một, chuyển thành một thứ kỷ niệm “vang bóng một thời”. Nhưng hóa ra những người con, người cháu như gia đình của cụ Cố Hồng ở thời buổi này vẫn còn vô khối.
Nghề đem nước mắt đến đám ma
Cái sự tang ma bao giờ cũng nỉ non, than khóc, đám tang nào mà không nhiều nước mắt, dễ bị cho là… tuồng bất hiếu. Một đám tang của người đàn ông do lạm dụng rượu mà phải chết vì chứng viêm gan (ở Dịch Vọng Hậu, Cầu Giấy, Hà Nội), người vợ vừa lăn lộn bên quan tài người quá cố, vừa nấc lên từng hồi, hai anh con trai cũng sà xuống linh cữu, xì xụp quỳ lạy, hết than vãn đến gào thét. Tuy họ gào rất to nhưng nghe không mấy thảm khiến có người đến viếng bụm miệng cười mà xì xầm: “Tay này lúc sống hay rượu chè, đánh đập vợ khiếp lắm. Chắc bà vợ và hai anh con kia cũng chẳng thương tiếc gì ngữ ấy. Chẳng có giọt nước mắt nào đau thương thực sự cả đâu…”.
Giữa lúc bát nháo ấy, từ bên trong đám hiếu dần dần xuất hiện những tiếng than khóc rất bài bản. Cứ từng lượt 2-3 người thay phiên nhau khóc. Những lời than thê lương: “Đừng bỏ chúng con cha ơi!…”, “Ngàn năm vĩnh biệt cha ơi! Biết bao giờ chúng con được nhìn thấy cha nữa…, cha ơi…”, “Ối cha ơi, chung rượu này con dâng lên cha mà như hình bóng cha vẫn còn đâu đây…” dần thay thế cho lời than khóc của vợ con, họ hàng người quá cố.
Bộ “diễn viên đóng thế” này gồm 3 người (2 nữ, 1 nam) phối hợp với nhau rất ăn ý. Họ ngồi lẫn vào đội nhạc hiếu để hành nghề. Tiếng khóc thảm thiết cộng hưởng với tiếng của dàn nhạc bát âm vang lên trong đêm khuya tĩnh mịch nghe não nề, thê thiết, tưởng tan nát cả cõi lòng. Hai người phụ nữ tên L. và M. (ngoài 30 tuổi) còn người đàn ông đứng tuổi hơn tên H. (45 tuổi), họ đều người làng Lệ Chi, Gia Lâm.
Các “khóc sĩ” và dàn nhạc hiếu trong một đám tang.
Chị M. cho biết: “Chồng chúng tôi đều trong đội phường kèn nhạc hiếu. Tôi đến với nghề này là điều tất yếu vì gia đình chồng đều đã mấy đời làm nghề nhạc hiếu, khóc mướn…”. “Mới thoáng cái mà đã mười mấy năm rồi đấy” – chị L. quay sang nói với tôi.
Để bước vào công việc khóc mướn, đầu tiên mỗi người đều phải tập cho mình… chai mặt, dạn dĩ rồi sau đó mới tập thể hiện từ cách nhăn mặt, nhíu mày kể lể, khóc tiếng lớn, tiếng nhỏ, lăn lê, phủ phục bên quan tài đến cả phong thái đĩnh đạc, giả làm người thân của tang chủ để tiếp khách…
Than thuê khóc mướn cũng đủ 36 kiểu
Nếu như trước đây khóc mướn chỉ là nghề phụ của một số người có năng khiếu… khóc trong các ban nhạc lễ đám ma thì bây giờ, trước nhu cầu khóc và những đòi hỏi về tính chuyên nghiệp của nhiều bậc trưởng giả mà theo cách nói của anh H. thì “những người giàu có họ muốn cho tiếng khóc của mình phải xứng đáng đồng tiền” nên không thể khóc theo kiểu nghiệp dư. Vì vậy mà những “khóc sĩ” cần phải chuyên môn hóa. Nếu trên đời có 36 điệu cười thì người khóc mướn cũng sáng tạo ra 36 kiểu khóc, mà khéo còn nhiều hơn.
Video đang HOT
Anh H. tiết lộ: “Khóc cũng phải có kiểu, có bài kể lể đầu đuôi, công trạng… Lúc mới hành nghề, tôi phải tập mãi mới quen cho giọng điệu lên bổng, xuống trầm, thương tâm đứt đoạn chứ không phải chỉ lăn lộn gào thét lung tung trước linh cữu người quá cố là được. Có lúc phải khóc da diết, thê lương kéo dài như thể nỗi đau cào xé không bao giờ đứt. Đó là kiểu khóc nhập vai người quả phụ khóc chồng. Kiểu này thường được thầy khóc trong những đám người chồng chết trẻ, bỏ lại vợ con bơ vơ.
Lại có kiểu khóc nấc lên nghẹn ngào… rồi lại đứt tiếng như không thốt ra thành lời. Đó là kiểu khóc nhập vai những người con đi xa mới đột ngột biết tin về chịu tang bố, mẹ. Kiểu khóc gọi người quá cố kết hợp với những từ cảm thán như “Ối!”, “Trời ơi!”… Rồi còn cả kiểu khóc như Nguyễn Khuyến đã khóc Dương Khuê, đó là khóc bạn hữu, tri kỉ, được thể hiện bằng những lời tâm tình, hồi tưởng lại ngày xưa trong tâm trạng đau buồn khi biết tin bạn mất…”.
“Nghề này cũng lắm công phu, bao giờ cũng phải đặt tâm trạng mình là người thân của người quá cố mới xúc động, tiếng khóc và lời kể sẽ tạo được hiệu ứng. Muốn là người trong cuộc thì phải biết đồng cảm với nỗi khổ người khác và hãy nhớ đến những người thân của mình đã qua đời để mà khóc” – anh H. bật mí. Rồi anh minh họa bằng một giọng khóc: “Hu… hu… Ơi hỡi mẹ ơi! Sao mẹ lại nỡ bỏ chúng con ra đi… Mẹ, mất mẹ rồi, chúng con biết sống ra sao…”. Tiếng khóc của anh bi ai, thống thiết đến độ làm tôi chạnh lòng nhớ đến người mẹ quá cố của mình mà ứa nước mắt.
Trọn một buổi khóc mướn
Thấy tôi ngỏ ý muốn hành nghề khóc mướn, anh H. đã nhận lời. 7h tối hôm sau, anh dẫn tôi cùng với một nhóm “khóc sĩ” gồm 4 người đi khóc thuê tại một đám tang ở Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội.
Gia chủ là một tay chuyên kinh doanh nhà đất ở trung tâm thành phố. Hợp đồng giao kèo giữa tang chủ với những người khóc mướn được quy định cụ thể: Liên tục trong thời gian tang lễ, họ sẽ đóng vai người thân của gia đình, mặc đồ xô trắng, quỳ lạy, khóc lóc bên quan tài, lo những công việc hậu cần trong nhà. Sau 3 ngày, đoàn sẽ nhận số tiền là 7 triệu đồng. Nếu phát sinh những tình huống cần phải khóc lóc, kể lể, ngất xỉu… vào ban đêm cùng với ban nhạc hay khi hạ huyệt, gia chủ sẽ tính theo giờ để thanh toán thêm.
Đưa tay ra hiệu cho chúng tôi tới một góc phòng, chủ nhà dặn: “Nhà tôi cả thảy 6 người khóc trước quan tài mẹ tôi. Tôi, 2 anh trai cùng mấy bà vợ. Coi như các anh chị khóc thay chúng tôi. Khóc suốt đêm cho thật thảm thiết vào, phải có nước mắt hẳn hoi. Ngoài tiền “sô”, tôi sẽ thưởng thêm cho. Càng khóc nhiều, khóc hay thì tiền thưởng càng cao”.
Anh H. lấy sổ ghi cẩn thận tiểu sử người quá cố, tên tuổi, công việc của gia chủ và họ hàng xa gần rồi phân cho 2 cô gái trong nhóm khóc vai con dâu, còn anh và người bạn “đóng vai” hai anh em “thân chủ”. Tôi là “khóc sĩ” tập sự nên không phải đóng vai, anh H. dặn khi nào cảm thấy khóc được thì cứ khóc.
Kèn trống vừa chấm dứt, anh H. nước mắt lưng tròng, phủ phục bên quan tài, “mở màn” với những lời kể lể bi ai và những tiếng nấc nghẹn ngào, nức nở. Ở cuối áo quan, hai cô “khóc sĩ” trong nhóm nước mắt cũng lưng tròng, than vãn, tiếc thương… mẹ chồng. Càng về khuya, tiếng khóc càng thêm não nuột. Trong khi đó, ở dãy bàn xéo bên hông nhà, hai ông con trai của người quá cố vừa nâng ly, vừa nói, cười, vừa bình luận về chuyện đất đai với những vị khách loại sang…
Khi khách viếng đã vãn, người đàn ông than khóc suốt từ chập tối đến gần nửa đêm mới có dịp ngồi dậy lật đật ra bàn nước và nở nụ cười tươi rói phủi chân leo lên sạp đánh chén sau khi nhận của tang chủ vài trăm nghìn tiền thưởng…
Theo PLVN
Kinh hãi ngôi làng ăn thịt lợn sống
Một ngôi làng ở Thái Bình, toàn là người Kinh, mà "xơi" thịt lợn sống. Ngôi làng này toàn... dị nhân?
Cách đây chừng 5 năm, nhà báo Nguyễn Như Phong, sau một chuyến công tác ở vùng ven biển thuộc tỉnh Thái Bình, ông đã lè lưỡi kể: "Hôm đó, tớ đi công tác, dự bữa cơm thân mật với người dân, họ đãi tớ món đặc sản. Món ăn bày ra mâm, nhìn thấy đĩa thịt lợn sống đỏ lòm giữa mâm cơm, tớ không nuốt nổi. Vậy mà, đám thanh niên làng, mấy bà, mấy cô, trẻ con, người già cứ luôn tay gắp nhai nhoanh nhoách những miếng thịt lợn sống. Dân ở đó toàn xơi thịt lợn sống trộn với thính câu cá. Hãi thật!".
Nhà báo Nguyễn Như Phong đi khắp thế giới, đặt chân đến khắp các vùng rừng rú, có nơi đồng bào dân tộc sống như thời nguyên thủy, thế nhưng, cuối cùng, ông lại hoảng sợ với một món ăn của người Kinh, ở một ngôi làng gần biển ở Thái Bình. Câu chuyện kể, với khuôn mặt nhăn nhó của nhà báo Nguyễn Như Phong khiến tôi nhớ mãi.
Băm thịt sống...
Trong đời làm báo, tôi đã từng xơi bọ xít, dế mèn, cào cào, châu chấu, bọ ve... món ăn đặc sản của người Thái ở Sơn La. Mấy món này tôi xơi đều đều, vì chiên mỡ giòn tan rồi.
Tôi cũng đã có không ít lần cùng các đồng nghiệp ở miền Tây, cụ thể là Cần Thơ, ăn món rắn ri voi, ri cá thế này: Con ri voi, ri cá to bằng bắp tay, cổ chân, nặng chừng 1-3kg, ngắn choẳn, chỉ độ nửa mét, màu xam xám, được một đồng nghiệp móc ra từ lồng, đem rửa thật sạch.
Bếp than hoa được thổi bùng bùng, nóng rực. Một anh cầm đầu rắn ri voi, ri cá, một anh cầm đuôi kéo thật căng, đặt lên thớt. Chiếc rựa vung lên, chém phầm phập, thành từng khúc một, mỗi khúc dài chừng 10cm. Nhìn cảnh máu me te tua mà hãi. Lòng phèo được moi ra.
Trộn với gia vị
Những khúc rắn được đặt lên bếp lửa, quạt điện quay vù vù, lửa bùng lên đốt những khúc rắn, mỡ cháy nổ lép bép. Chỉ chừng một phút, lớp da mỏng của rắn chín bong. Thế là, mỗi ông nhà báo một khúc gặm. Vừa gặm vừa chạm cốc. Kể ra thật hãi: thịt rắn vẫn trắng ởn, sống nguyên và máu đỏ vẫn dính ở xương. Đồng nghiệp ăn, tôi cũng ăn, và thấy thịt rắn sống quả là ngọt tận cuống họng!
Kinh hãi nhất có lẽ là lần tôi tận mắt, chụp ảnh, quay phim đầy đủ cảnh anh Ngô Văn Tùy ở đảo Lý Sơn xơi các loại đồ sống. Anh này thuộc hạng kỳ nhân, hoặc có thể gọi là người vượn tái thế. Bất cứ con gì sống, anh ta xơi được tất. Lúc đầu, xem anh ta ăn cá biển sống, tôi thấy bình thường, vì người Nhật, người Hàn đều xơi cá biển sống. Họ cứ tóm cá biển lên, thái lát thịt, chấm nước chanh hoặc mù tạt là ăn luôn.
Thế nhưng, lúc xem anh ta nhai rau ráu con rắn bù nặc, một loài rắn cực độc, nọc độc ngang hổ mang chì, khi nó còn đang sống ngo ngoe, thì quả tôi chóng cả mặt. Xơi rắn rồi, anh ta còn xơi chuột sống, giun sống, gián sống... Mấy người dân Lý Sơn đứng xem anh ta biểu diễn, cứ gọi là nôn ồng ộc.
Trở lại câu chuyện của nhà báo Nguyễn Như Phong, về một ngôi làng ở Thái Bình, người Kinh đàng hoàng, mà xơi toàn thịt lợn sống, cả làng xơi thịt sống, già trẻ gái trai, nam thanh nữ tú xơi thịt sống, thì tôi thấy, cái anh Ngô Văn Tùy kia cũng bình thường thôi. Bởi vì, ở cái làng đó, không phải một người đặc dị, mà cả làng cùng ăn thịt lợn sống. Phải chăng, ngôi làng này toàn... dị nhân!
Thế rồi, đúng là hữu duyên, trong một chuyến đi công tác, tôi lại về đúng cái làng mà nhà báo Nguyễn Như Phong từng được đãi một bữa thịt sống. Đó là làng Vị Thủy, thuộc xã Thái Dương (Thái Thụy, Thái Bình), nằm cách biển Đông không xa lắm. Và điều tình cờ hơn, là tôi lại về đó đúng vào ngày đẹp, có 2 đám cưới liền. Ở cái làng này, đám cưới, đám hỏi, đám ma, đều không thể thiếu được món thịt lợn sống. Quả là cơ hội ngàn vàng, được chứng kiến đầy đủ từ giai đoạn chế biến, đến cảnh người dân thi nhau xơi món ăn kinh dị.
Có thể nói, hiếm có ngôi làng nào đẹp như làng Vị Thủy. Làng nằm lọt giữa hai con sông. Con sông ở cuối làng đỏ nặng phù sa, là con sông cấp nước cho đồng ruộng, còn con sông ở đầu làng lại là sông thoát nước ra biển. Con sông này rộng mênh mang, nước xanh ngằn ngặt. Đường làng Vị Thủy thẳng tắp, cây cối bên đường xanh rờn, quả là thi vị.
...đã trở thành món đặc sản của làng.
Tiện về công tác, lại muốn tìm hiểu món thịt lợn sống, nên tôi được các nghệ nhân nấu ăn của làng Vị Thủy mời chứng kiến và xơi món ăn đặc sản của làng, không giống bất kỳ đâu ở đất nước này. Các nghệ nhân chế biến món thịt sống còn có ý "nhờ vả" tôi quay phim, chụp ảnh, giới thiệu cho cả nước biết đến món đặc sản thịt lợn sống có một không hai của làng.
Vậy là, tôi đã có dịp hiếm có, được tận mắt từ đầu đến đuôi, từ cảnh bác đồ tể cầm dao chọc tiết lợn, đến cảnh moi thịt sống ra băm, cho đến khi món thịt sống lên mâm cỗ và dựng tóc gáy với cảnh hàng trăm người, đủ cả già trẻ, lớn bé, nam thanh, nữ tú luôn tay gắp thịt sống cho vào miệng, nhai một cách ngon lành.
Theo GDVN
Chuyện 'người bị giời đày' đưa tiễn linh hồn ở Bắc Giang Mặc dù sống ở nơi hẻo lánh không có điện thoại, nhưng hễ nhà ai có đám ma trong phạm vi 15 km đổ lại là ông xuất hiện rất nhanh. Ông đến và lao vào làm những công việc như người nhà tang chủ, đến khi đưa tiễn linh hồn người chết ra đồng ông mới trở về nhà. Người ta hay...