Nước cờ sau giàn khoan của TQ: Việt Nam cần làm gì?
Con đường tơ lụa trên biển là một thực tế, không bác bỏ trong đó đóng góp của tất cả các nước ven biển là quan trọng. Nhưng việc vinh danh nó phải trên cơ sở tộn trọng luật quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền các nước, vì mục đích hòa bình, củng cố tình hữu nghị giữa các dân tộc, không thể xen lẫn bất kỳ mục đích tư lợi nào.
Năm 2007, Campuchia đề nghị công nhận Di sản văn hoá cho đền Preah Vihear nhưng đã bị UNESCO bác bỏ do còn tồn tại những bất đồng với Thái Lan và vì một phần Thái Lan bác bỏ và phản đối đề nghị này của Campuchia. Tuy nhiên, một năm sau, được Bộ Ngoại giao Thái Lan ủng hộ, vào ngày 7 tháng 6 năm 2008, Ủy ban di sản thế giới họp tại Canada đã công nhận đền Preah Vihear là di sản thế giới. Quyết định này cũng dựa trên phán quyết của Tòa án quốc tế năm 1962 công nhận chủ quyền của Campuchia đối với đền Preh Vihear.
Lịch sử thế giới ghi nhận con đường tơ lụa bắt đầu từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh (Trung Quốc) qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, xung quanh vùng Địa Trung Hải và đến tận châu Âu. Con đường cũng đi đến cả Hàn Quốc và Nhật Bản. Nó có chiều dài khoảng 4.000 dặm, hay 6.437 km. Nhưng đến thời nhà Minh, Con đường tơ lụa đã bị vương triều này khống chế và bắt mọi người phải nộp thuế rất cao khiến cho những thương gia phải tìm đến những con đường vận chuyển bằng đường biển.
Với việc giao thương qua đường biển phát triển (hình thành Con đường tơ lụa trên biển) và Quảng Châu đã được xem là nơi khởi đầu của Con đường tơ lụa trên biển. Con đường này xuất phát từ cảng Từ Văn, Hợp Phố ( bán đảo Lôi Châu) qua vịnh Bắc Bộ, men theo bờ biển Việt Nam qua vịnh Thái Lan xuống vùng tây – nam Malaysia, đi qua eo Malaca vòng lên phía bờ biển nam Thái Lan, qua Miến Điện vào vịnh Ben-gal rồi xuôi xuống vùng nam Ấn Độ và dừng lại trên đảo Xrilanca. Nhà Hán học người Pháp Edourd Chavanse ( 1865-1918) trong tác phẩm ” Sử liệu Tây Turki”, cho rằng ” Con đường tơ lụa có hai tuyến: đường bộ và đường biển”.
Ảnh: telegraphindia
Khó có con đường di sản chung
Con đường tơ lụa không chỉ là huyết mạch thông thương buôn bán mà còn là một hành trình văn hóa, tôn giáo đa dạng được hòa trộn, có thể mang lại nhiều lợi ích đa phương trong trao đổi văn hóa và du lịch. “Con đường tơ lụa là con đường: Thương mại, Du hành, Chiến tranh và Niềm tin”. Hiện tại các tổ chức quốc tế UNESCO, ICMOS, UCL đang triển khai dự án nghiên cứu các địa điểm và tuyến đường dọc theo con đường tơ lụa trên bộ (Silk Roads World Heritage Serial Nomination project). Dự án đã có 15 nước tham gia.
Ngày 22/6/2014, tại khóa họp lần thứ 38, UNESCO đã thông qua danh sách ghi nhận Kênh Lớn (Grand Canal ) của Trung Quốc và Con đường tơ lụa (Silk Road trên bộ), mà Trung Quốc, Kazakhstan và Kyrgyzstan đồng trình là di sản văn hóa thế giới, đưa danh sách di sản của Trung Quốc lên con số 47.
UNESCO cũng quan tâm đến việc bảo vệ các di sản văn hóa dưới nước. Các di chỉ khảo cổ dưới nước được đề cập lần đầu trong Công ước Luật biển UNCLOS 1982. Hai điều khoản liên quan trự tiếp đến các di sản văn hóa dưới nước là 149 và 303.
Điều 149 quy định: “Tất cả các di vật khảo cổ hay lịch sử tìm thấy trong Vùng đều được bảo tồn hay nhượng lại vì lợi ích của toàn thể loài người, đặc biệt quan tâm đến các quyền ưu tiên của quốc gia hay của nơi xuất xứ, hoặc của quốc gia xuất xứ về văn hóa, hay còn của quốc gia xuất xứ về lịch sử hay khảo cổ”. Điều này liên quan đến các di vật khảo cổ hay lịch sử nằm trong Vùng di sản chung của loài người, tức vùng biển nằm ngoài thềm lục địa của quốc gia ven biển.
Điều 303 quy định: “Các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ các hiện vật có tính chất khảo cổ hay lịch sử được phát hiện ở biển, các quốc gia hợp tác với nhau vì mục đích ấy.
Để kiểm soát việc mua bán hiện vật này, bằng cách áp dụng điều 33, quốc gia ven biển có thể coi việc lấy các hiện vật đó từ đáy biển trong vùng nói ở điều đó mà không có sự đồng ý của mình là sự vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển ở trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình, đã được nêu ở điều 33.
Điều này không đụng chạm đến các quyền của những người sở hữu có thể được xác nhận, cũng không đụng chạm đến quyền thu hồi các xác tàu và các quy tắc khác của luật hàng hải cũng không động chạm đến các luật và tập quán về mặt trao đổi văn hóa. Điều này không làm phương hại đến các điều ước quốc tế khác và các quy tắc của pháp luật quốc tế liên quan đến việc bảo vệ các hiện vật có tính lịch sử hay khảo cổ.”
Điều 33 là điều quy định chế độ pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải. Như vậy, trong Biển Đông, nơi có nhiều yêu sách biển chồng lấn, sẽ khó có Vùng di sản chung nên chỉ còn điều 303 được áp dụng cho vùng tiếp giáp lãnh hải 24 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
Quốc gia ven biển có đầy đủ quyền chủ quyền đối với các di vật mang tính lịch sử và khảo cổ trong vùng nội thủy, lãnh hải và tiếp giáp lãnh hải của mình. Việc trục vớt, lấy các hiện vật đó từ đáy biển trong vùng nói ở điều đó mà không có sự đồng ý của quốc gia ven biển được coi là sự vi phạm các luật và quy định của quốc gia đó ở trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình
Để làm rõ thêm các quy định của UNCLOS 1982, năm 2001 UNESCO đã thông qua Công ước về bảo vệ các di sản văn hóa dưới nước. Điều 1 của Công ước định nghĩa các di sản văn hóa dưới nước là : “tất cả dấu vết của sự tồn tại của con người có tính chất văn hóa, lịch sử hay khảo cổ có một phần hoặc hoàn toàn dưới nước, định kỳ hoặc liên tục, ít nhất là 100 năm như: các địa điểm, các cấu trúc, các công trình, đồ tạo tác và vết tích con người…; tàu, máy bay … [và] hàng hóa của họ, cùng với nội dung khảo cổ và tự nhiên của chúng; và các đối tượng mang tính tiền sử”. Tiêu chí thời gian 100 năm đã loại bỏ tất cả các dấu tích của hai cuộc Thế chiến thế giới đến nay.
Mục đích chính của Công ước là bảo vệ và bảo tồn các di sản văn hóa dưới nước “vì lợi ích của toàn thể nhân loại” ngay tại các điểm (situ) phát hiện ra chúng. Quốc gia ven biển và các quốc gia khác hợp tác với nhau bảo vệ các di sản văn hóa dưới nước tránh sự tác động của kỹ thuật, của các hoạt động do con người gây ra đối với tự nhiên (như đặt cáp, khoan đào, khai thác tài nguyên..) và nâng cao giáo dục, truyền bá kiến thức về các di sản này cho các thế hệ.
Video đang HOT
Luật cứu hộ và luật tìm thấy sẽ không được áp dụng đối với các di sản văn hóa dưới nước. Công ước đã có hiệu lực vào ngày 2/1/2009 và hiện đã có 48 quốc gia phê chuẩn (Tại Đông Nam Á chỉ mới có Campuchia tham gia).
Việt Nam cần làm gì?
Con đường tơ lụa trên biển thực chất là con đường thương mại. Hàng hóa trao đổi không chỉ có tơ lụa. Các quốc gia nằm ven bờ Biển Đông đều có lịch sử thương mại hàng hải phong phú.
Các vụ trục vớt tàu thuyền như ở Cù Lao Chàm năm 2003 đã cho thế giới thấy một nền văn minh gốm Chu Đậu khác biệt hẳn với Trung Hoa và đã được trao đổi buôn bán với nhiều nước trên thế giới. Các hải cảng Phố Hiến, Hội An đã từng là các trung tâm thương mại hàng hải lớn của khu vực. Tàu thuyền qua lại Biển Đông đều có hành trình an toàn nhất là chạy dọc theo bờ biển Việt Nam, vì vậy tuyến đường hàng hải qua biển Việt Nam cũng đã là một phần của con đường tơ lụa trên biển trong quá khứ.
Lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận nhiều hoạt động mang tính Nhà nước về khai thác các hóa vật từ tàu đắm trên quần đảo Hoàng sa, Trường Sa, trợ giúp cứu hộ các tàu thuyền nước ngoài bị nạn trong vùng biển của mình. Bằng các hành động của đội Hoàng Sa, Bắc Hải, Việt Nam là Nhà nước đầu tiên đã khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo và các vùng biển xung quanh, ít nhất từ thế kỷ XVII mà không gặp phải sự phản ứng từ bất kỳ quốc gia nào.
Căn cứ vào Công ước Luật biển 1982 và các Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên của UNESCO 1972 và 2001, Việt Nam là quốc gia ven biển có chủ quyền đối với tất cả các “tất cả dấu vết của sự tồn tại của con người có tính chất văn hóa, lịch sử hay khảo cổ có một phần hoặc hoàn toàn dưới nước, định kỳ hoặc liên tục, ít nhất là 100 năm như: các địa điểm, các cấu trúc, các công trình, đồ tạo tác và vết tích con người…; tàu, máy bay … [và] hàng hóa của họ, cùng với nội dung khảo cổ và tự nhiên của chúng; và các đối tượng mang tính tiền sử” trong vùng nội thủy, lãnh hải và tiếp giáp lãnh hải của mình.
Đồng thời Việt Nam cũng có nghĩa vụ hợp tác với các quốc gia khác trong việc bảo vệ và bảo tồn các di sản văn hóa dưới nước tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, Vùng di sản chung của loài người bên ngoài các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền quốc gia ven biển.
Trên cơ sở đó Việt Nam cần nhanh chóng kiểm tra, bổ sung các quy định về di sản văn hóa, lịch sử và khảo cổ trong vùng tiếp giáp lãnh hải vào Luật các vùng biển Việt Nam 2012 và Nghị định 96/2009/NĐ-CP ngày 30/10/2009 về việc xử lý tài sản bị chôn giấu, bị chìm đắm được phát hiện hoặc tìm thấy thuộc đất liền, các hải đảo và vùng biển Việt Nam.
Khảo sát, nghiên cứu, xây dựng danh mục các địa điểm đăng ký di sản văn hóa dưới nước với UNESO đồng thời là cơ sở đấu tranh với các ý định bành trướng trên biển dưới chiêu bài bảo vệ các di sản nhân loại.
Tuyên truyền quảng bá các kiến thức về di sản văn hóa dưới nước, tạo nhận thức chung trong công chúng.
Con đường tơ lụa trên biển là một thực tế, không bác bỏ trong đó đóng góp của tất cả các nước ven biển là quan trọng. Nhưng việc vinh danh nó phải trên cơ sở tộn trọng luật quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền các nước, vì mục đích hòa bình, củng cố tình hữu nghị giữa các dân tộc, không thể xen lẫn bất kỳ mục đích tư lợi nào.
Theo VietNamNet
Các chủng loại trực thăng hiện có trong Không quân Việt Nam
Không quân Việt Nam hiện được trang bị hàng trăm máy bay trực thăng các loại, có nguồn gốc từ Nga, Mỹ và châu Âu.
Các chủng loại trực thăng hiện có trong Không quân Việt Nam
Trực thăng vận tải - chiến đấu Mi-8 Hip
Thông số cơ bản: Kíp lái 3 người; dài 18,17 m; đường kính rotor 21,29 m; cao 5,65 m; trọng lượng rỗng 7.260 kg, có tải 11.100 kg, trọng lượng cất cánh tối đa 12.000 kg. Máy bay được trang bị 2 động cơ Klimov TV3-117Mt công suất 1.454 kW (1.950 shp) mỗi chiếc cho tốc độ tối đa 260 km/h, tầm bay 450 km, tầm bay chuyển sân 960 km, trần bay 4.500 m. Sức chứa 24 người hoặc 1.500 kg vũ khí dưới 6 giá treo gồm bom, rocket và tên lửa chống tăng.
Mil Mi-8 (NATO định danh Hip) là loại máy bay trực thăng vận tải - chiến đấu 2 động cơ được đưa vào phục vụ trong Không quân Liên Xô từ năm 1967. Mi-8 được sử dụng ở hơn 50 quốc gia trong đó có cả Việt Nam, với con số ước tính khoảng 80 chiếc còn hoạt động. Hiện nay, Không quân Việt Nam đang từng bước thay thế Mi-8 bằng phiên bản Mi-17 hiện đại hơn.
Trực thăng vận tải - chiến đấu Mi-17 / Mi-171 / Mi-172 Hip-H
Thông số cơ bản: Kíp lái 3 người; dài 18,465 m; đường kính rotor 21,25 m; cao 4,76 m; trọng lượng rỗng 7.489 kg, có tải 11.100 kg, trọng lượng cất cánh tối đa 13.000 kg. Máy bay được trang bị 2 động cơ Klimov TV3-117VM công suất 1.633 kW (2.190 shp) mỗi chiếc cho tốc độ tối đa 250 km/h, tầm bay chuyển sân 960 km, trần bay 6.000 m. Sức chứa 30 người hoặc 1.500 kg vũ khí dưới 6 giá treo gồm bom, rocket, súng máy gắn ngoài và tên lửa chống tăng.
Mil Mi-17 Hip-H là biến thể nâng cấp của trực thăng vận tải đa năng Mil Mi-8, ban đầu máy bay được gọi là Mi-8TMB. Mi-17 trang bị động cơ mới có công suất lớn hơn và khung máy bay được gia cường để đáp ứng yêu cầu tăng tải trọng hàng hóa. Ngoài chức năng vận tải, Mi-17 và các biến thể đều có năng lực chiến đấu khá tốt.
Điểm khác biệt của Mi-17 so với Mi-8 là được bổ sung thêm 2 lưới lọc trước cửa hút không khí của động cơ. Rotor đuôi bố trí ở bên trái thay vì bên phải như Mi-8 để tăng khả năng ổn định của trực thăng do động cơ mới có công suất lớn hơn.
Bên cạnh phiên bản gốc Mi-17, hiện tại Không quân Việt Nam còn sử dụng 2 biến thế khác gồm Mi-171 và Mi-172 trong đó Mi-171 dùng chủ yếu cho hoạt động tìm kiếm cứu nạn còn Mi-172 nằm trong đội hình Tổng công ty trực thăng Việt Nam phục vụ chở khách.
Trực thăng Mi-171
Trực thăng Mi-172
Trực thăng săn ngầm Ka-28, trực thăng vận tải Ka-32
Trực thăng Ka-28
Trực thăng Ka -32
Thông số cơ bản: Kíp lái 2 - 3 người; dài 11,3 m; đường kính rotor 2 x 15,8 m; cao 5,5 m; trọng lượng rỗng 6.500 kg, có tải 11.100 kg, trọng lượng cất cánh tối đa 12.000 kg. Máy bay được trang bị 2 động cơ Isotov TV3-117V công suất 1.660 kW (2.230 shp) mỗi chiếc cho tốc độ tối đa 270 km/h, tầm bay chuyển sân 980 km, trần bay 5.000 m. Sức tải 4.000 kg vũ khí treo bên ngoài gồm bom chìm, ngư lôi và rocket chống ngầm.
Ka-28 là phiên bản xuất khẩu của Ka-27 Helix, một loại máy bay trực thăng chống ngầm do Kamov sản xuất để trang bị cho Hải quân Liên Xô. Công việc thiết kế Ka-27 bắt đầu năm 1970 và hoàn thành vào năm 1973. Giống như nhiều máy bay trực thăng Kamov khác, Ka-27 có cấu hình 2 rotor đồng trục triệt tiêu momen quay nên không cần cánh quạt đuôi.
Từ nguyên mẫu, nhiều phiên bản Ka-27/28 đã ra đời bao gồm máy bay tìm kiếm cứu hộ loại thường và loại có vũ trang, máy bay trực thăng vận tải trên biển Ka-29 và phiên bản dân sự Ka-32. Hiện nay Ka-32 Helix-C trong biên chế của Không quân Việt Nam chủ yếu phục vụ nhiệm vụ bay tiếp tế cho các giàn khoan dầu khí.
Trực thăng vận tải - cứu hộ EC-155B (AS-365) Dauphin
Thông số cơ bản: Kíp lái 2 người; dài 13,73 m; đường kính rotor 11,94 m; cao 4,06 m; trọng lượng rỗng 2.411 kg, trọng lượng cất cánh tối đa 4.300 kg. Máy bay được trang bị 2 động cơ Turbomeca Arriel 2C công suất 625 kW (838 shp) mỗi chiếc cho tốc độ tối đa 306 km/h, tầm bay chuyển sân 827 km, trần bay 5.865 m, sức chứa 11 hành khách.
Eurocopter Dauphin hay còn được gọi là AS-365/EC-155 là loại trực thăng đa năng 2 động cơ chủ yếu dùng cho mục đích vận tải, cứu hộ và chống ngầm. Trực thăng Dauphin của Việt Nam là phiên bản vận tải - cứu hộ được biên chế cho Tổng công ty trực thăng Việt Nam.
Trực thăng vận tải - cứu hộ EC-225 Super Puma
Thông số cơ bản: Kíp lái 2 người; dài 19,5 m; đường kính rotor 16,2 m; cao 4,97 m; trọng lượng rỗng 5.265 kg, trọng lượng cất cánh tối đa 11.200 kg. Máy bay được trang bị 2 động cơ Turbomeca Makila 2A1 công suất 1.776 kW (2.382 shp) mỗi chiếc cho tốc độ tối đa 275,5 km/h, tầm bay chuyển sân 985 km, trần bay 5.900 m, sức chứa 24 hành khách.
EC-225 Super Puma là loại máy bay vận tải hành khách đường dài được phát triển bởi Eurocopter dựa trên chiếc AS-332 với một số cải tiến về 5 lưỡi chính của cánh quạt nhằm giảm độ rung. EC-225 được thiết kế nhằm thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt trên biển và cũng có thể sử dụng với mục đích chuyên chở khách VIP và cứu hộ cứu nạn. Hiện tại Tổng công ty trực thăng Việt Nam có tất cả 4 chiếc EC-225 Super Puma.
Trực thăng huấn luyện EC-120B Colibri
Thông số cơ bản: Kíp lái 2 người; dài 9,6 m; đường kính rotor 10,0 m; cao 3,4 m; trọng lượng rỗng 991 kg, trọng lượng cất cánh tối đa 1.715 kg. Máy bay được trang bị 1 động cơ Turbomeca Arrius 2F công suất 376 kW (504 shp) cho tốc độ tối đa 278 km/h, tầm bay chuyển sân 710 km, trần bay 5.182 m, sức chứa 4 hành khách.
EC-120 Colibri là loại trực thăng hạng nhẹ 5 chỗ ngồi, 1 động cơ, 1 rotor chính được phát triển bởi Eurocopter. EC-120 thực hiện chuyến bay đầu tiên vào ngày 9/6/1995 và bắt đầu sản xuất loạt từ năm 1998. Hiện nay, EC-120 được Tổng công ty Trực thăng Việt Nam sử dụng chủ yếu cho mục đích huấn luyện phi công và bay du lịch.
Trực thăng vận tải - chiến đấu UH-1 Huey
Thông số cơ bản: Kíp lái 1 - 4 người; dài 17,4 m (với rotor); đường kính rotor 14,63 m; cao 4,39 m; trọng lượng rỗng 2.365 kg, có tải 4.100 kg, trọng lượng cất cánh tối đa 4.309 kg. Máy bay được trang bị 1 động cơ Lycoming T53-L-11 công suất 820 kW (1.100 shp) cho tốc độ tối đa 217 km/h, tầm bay chuyển sân 507 km, trần bay 5.910 m. Sức chứa 14 người cùng vũ khí gồm rocket và súng máy gắn ngoài.
UH-1 Iroquois là loại máy bay trực thăng quân sự đa năng do hãng Bell chế tạo, UH-1 rất nổi tiếng và được coi là một trong những biểu tượng của chiến tranh Việt Nam, nó thường được biết dưới tên dùng trong Thủy quân lục chiến Mỹ là Huey.
Sau năm 1975, Không quân Việt Nam thu được khoảng 50 chiếc UH-1 nhưng sau đó do hao hụt trong chiến tranh biên giới Tây Nam và thiếu phụ tùng bảo dưỡng nên toàn bộ số UH-1 đã phải nghỉ hưu. Tuy nhiên đến năm 2005, Việt Nam đã thực hiện dự án khôi phục hoạt động cho UH-1 với tổng cộng 14 chiếc hoàn thành tính đến thời điểm hiện tại. Phiên bản UH-1 đang được Việt Nam sử dụng là UH-1H với đặc điểm nhận dạng là cửa xả ngửa lên trên.
Ngoài những loại trực thăng trên, Không quân Việt Nam đã từng có sự phục vụ của Mi-4, Mi-6, Mi-24A, Ka-25 và CH-47. Tuy nhiên, tất cả đều đã nghỉ hưu do hết hạn sử dụng.
Theo Xahoi
"Trung Quốc không dám xem thường sức mạnh quân sự Việt Nam" Việt Nam xây dựng "2 tuyến chiến trường", thực hiện "cân bằng nam-bắc", nhất là phát triển hải, không quân của Việt Nam, làm cho TQ không dám xem thường. Máy bay chiến đấu Su-30MK2 của Không quân Việt Nam Tờ "Want Daily" Đài Loan ngày 20 tháng 5 đăng bài viết của phóng viên Trần Trúc Quân cho rằng, đối đầu trên...