Núi Ba Thê – kinh đô hậu Phù Nam
Núi Ba Thê lớn nhất, cao nhất trong vùng tứ giác Long Xuyên, xưa từng mang cái tên khá mỹ miều là Hoa Thê sơn, nhưng sau đó lại có cái tên buồn: Vọng Thê.
Ngày xưa cảng thị Óc Eo của vương quốc Phù Nam nằm trên cánh đồng Óc Eo bên chân núi Ba Thê, Thoại Sơn (An Giang) – Ảnh tư liệu.
Khu vực Linh Sơn tự bên chân núi từng là kinh đô thời hậu Phù Nam.
Phật hóa… thần Vishnu
Linh Sơn tự nằm bên sườn núi, tĩnh mịch giữa khuôn viên rộng rợp bóng những hàng cây cổ thụ cao vút. Khởi đầu chùa được lập nên để thờ hai bia đá cổ và pho tượng vị thần có bốn tay.
Chánh điện chùa thờ pho tượng sơn màu vàng bóng trong tư thế người ngồi kiết già nhưng hình thể phốp pháp, mắt mở to, nét mặt không giống như bao tượng Phật thường gặp ở các chùa chiền khác. Đặc biệt tượng có bốn tay, tay phải trên cầm xâu chuỗi, tay trái trên bắt ấn, hai tay dưới nắm trái châu và cái chuông nhỏ. Mặt sau phía trên đầu người là hình rắn thần Naga xòe bảy đầu ra tạo thành tán che. Hai bên chân tượng ốp hai tấm bia đá màu đen kích thước gần bằng nhau (dày 22cm, cao 1,8m), một tấm có khắc mấy dòng chữ cổ ngoằn ngoèo. “Đây là tượng thần Vishnu trong Bà La Môn giáo nhưng đã được… Phật hóa”, nhiều người am hiểu về tôn giáo cho biết.
Giữa mùa hè, những đêm miên man trên đỉnh Ba Thê lộng gió, chúng tôi được nghe kể nhiều chuyện ở vùng đất này. Vào đầu thế kỷ trước, phát hiện hai tấm bia đá cổ màu đen ở ven sườn núi, dân làng cất căn lều tranh vách đất cạnh đấy để đưa vào thờ. Lúc đó người ta gọi là chùa Bia Đá, do ông Bảy Ranh, một vị tu hành theo lối đạo Tiên, trông nom.
Ông Bảy thường đi phổ độ, trị bệnh cho dân chúng quanh vùng, rồi được một cô gái người Hoa trẻ đẹp, thường gọi là cô Xẩm, đem lòng yêu thương. Không cầm lòng đặng, Bảy Ranh đành theo người tình cùng đi xây tổ ấm riêng. Sau đó sư Như Chánh đang tu ở một ngôi chùa nhỏ thuộc hệ phái Phật giáo Mật Tông trên đỉnh núi Ba Thê xuống đây quản chùa. Hòa thượng Thích Thiện Trí, hiện đang trụ trì chùa, cũng kể lại câu chuyện tương tự như thế.
Năm 1913 Pháp lập đồn bốt gần chợ Óc Eo, khi xe ủi mở đường làm bày ra tượng đá đen to với hình dạng một vị thần có bốn tay với tư thế đứng ở sâu dưới lòng đất. Dân làng lấy 50m vải mềm quấn chặt quanh tượng, buộc ngoai xỏ đòn tre vào để khiêng, dễ dàng đưa về chùa.
Sau khi đem tượng về, bá tánh quanh vùng đóng góp tiền của xây lại ngôi chùa đàng hoàng, đặt tên là Linh Sơn tự. Sợ tượng bị lấy đi, người dân bàn bạc rồi cho xây bệ thờ cao ôm lấy chân tượng và ốp hai tấm bia đá to kín ở hai bên. Đồng thời, để phù hợp với một ngôi chùa, tượng được sửa đắp thêm hai chân xếp bằng ngang với bệ thờ và sơn phết thêm cho giống tư thế Phật ngồi thiền. “Tượng đắp thêm bằng ximăng trông không được… mỹ thuật, hài hòa cho lắm” – sư Thiện Trí nhìn nhận. Thấy tượng có bốn tay nên dân địa phương gọi là tượng Phật bốn tay, từ đó chùa cũng có tên… chùa Phật Bốn Tay.
Chùa thu hút đông người Kinh, Hoa, Khmer nơi nơi đến lễ bái, đóng góp xây dựng, qua mấy lần trùng tu Linh Sơn tự mới được to đẹp như bây giờ. Phía sau bên hông phải chùa có một cây sao cổ thụ với bốn thân đâm thẳng lên trời, cạnh đó cây xoài và cây vú sữa cũng có hình dáng gần tương tự.
Sư Thiện Trí nhớ lại mình đến chùa năm 1967, hồi đó xung quanh rừng núi còn âm u lắm, ông cùng các vị sư bỏ công đào tám chỗ mới được một cái giếng có nước ngọt trong lành cho dân làng dùng. Khi đào thường gặp nhiều cổ vật. Hồi những năm 1980 rộ lên chuyện vàng nổi, mỗi ngày có hơn 500 người tới đây đào tìm vàng, quanh chùa vô số hố sâu ngổn ngang, hàng loạt cây xoài cổ thụ bị trốc gốc chết. Công an đến canh giữ vẫn không ngăn xuể.
Video đang HOT
“Cứ nửa khuya từng nhóm dăm ba người bí mật bò lên chùa lén đào trộm vác đi vài bao đất đem đến nơi khác đãi. Đất đào trộm đổ lấp đầy luôn hai ao dưới chân núi. Chỉ vài bao đất mà đãi cũng được vàng, có những thứ như đồ của vua chúa ngày xưa” – vị sư này nói.
Khi cơn sốt vàng lắng xuống thì vô số gạch cổ, di vật Phù Nam bày ra dưới hố và đầy mặt đất. Các hòa thượng bèn cho chỉnh trang lại khuôn viên chùa tạo thành từng cấp cao thấp khác nhau, sau đó nhặt từng viên gạch đem đắp kín các bề mặt. “Ròng rã suốt 16 năm trời mới đắp đầy quanh các vòng thành, tầng cấp, ước gần cả triệu viên gạch cổ. Nhờ vậy chùa mới có vẻ đẹp cổ kính như ngày nay. Loại gạch này để ngoài trời càng cứng chắc” – những hộ sống gần chùa kể.
Các đợt khai quật những năm sau đó tại một điểm phía nam chùa, ngoài các vật kiến trúc còn phát hiện nhiều tượng thần Vishnu, đầu tượng Harihara, bệ thờ linga – yoni cùng các di vật khác. Trong khuôn viên chùa và lân cận có quần thể gồm nhiều phế tích kiến trúc lớn được xây bằng gạch – đá, với nhiều đoạn tường cao, nhiều hàng gạch xây, mặt nền móng, đường cống thoát nước… Điều đó cho thấy khu vực Linh Sơn tự là một phức thể di tích kiến trúc cổ trải rộng.
Theo TS Đào Linh Côn, ông George Coedès, giám đốc Viện Viễn Đông Bác Cổ (Pháp), cho rằng vua Nrpadidya là hậu duệ của dòng tộc Phù Nam có niên đại trị vì khá trùng hợp với niên đại của quần thể di tích ở Linh Sơn tự. Từ đó có thể suy đoán chân núi Ba Thê từng là chốn cung đình của các vị vua cuối thời Phù Nam đến thời hậu Phù Nam.
Mặt khác, trong thư tịch cổ Trung Hoa cũng có ghi kinh đô cuối cùng của Phù Nam có tên Na Phất Na (tức Naravaranagara), có thể là bên núi Ba Thê. Vào thế kỷ VI-VII, khi cảng thị Óc Eo mất đi vai trò thì Ba Thê tiếp nối và phát triển truyền thống tạo lập nên nền văn hóa Óc Eo – hậu Phù Nam cùng với việc thiết lập kinh đô mới tại đây, trong khu vực phía nam chùa Linh Sơn hiện nay. TS Lê Xuân Diệm cũng nhận định khu vực núi Ba Thê với phạm vi rộng lớn tập trung nhiều di tích thờ cúng, lăng mộ thì thật sự là một trung tâm lớn. Chắc hẳn đấy là một trung tâm quyền lực.
Tấm bia cổ có chạm khắc chữ và tượng Phật bốn tay thờ ở chánh điện Linh Sơn tự trên sườn núi Ba Thê – Ảnh: Đức Vịnh.
Theo các nhà khảo cổ, bia được chạm khắc chữ sankrit cổ trên mặt, một bia bị bào mòn, bia kia chữ vẫn còn rõ nét, nội dung ghi lại câu chuyện liên quan đến một vị vua Phù Nam xưa. Còn pho tượng vốn là tượng thần Vishnu trong Bà La Môn giáo, có nguồn gốc từ Ấn Độ, giống như tượng Bà Chúa Xứ ở núi Sam Châu Đốc.
Cả hai cổ vật này thuộc nền văn hóa Óc Eo, niên đại khoảng thế kỷ II-VI. Vì thế, năm 1988 Bộ Văn hóa công nhận đó là di tích lịch sử văn hóa, đến năm 2009 Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam công nhận danh hiệu “Tượng và bia lâu năm nhất, lớn nhất VN”.
Theo Zing
Điều cần biết khi du lịch 'vương quốc mắm' Châu Đốc
Không chỉ là điểm hành hương nổi tiếng của miền tây, Châu Đốc còn có nhiều phong cảnh hữu tình và đặc sản độc đáo như thốt nốt, mắm, tung lò mò...
Nằm bên ngã ba sông thơ mộng, Châu Đốc là trung tâm du lịch nổi tiếng của tỉnh An Giang cũng như vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Thời gian
Du khách có thể tham quan Châu Đốc quanh năm, cao điểm là đầu năm mới và lễ hội Bà Chúa Xứ vào tháng 4 âm lịch.
Di chuyển
Từ TP HCM, bạn chọn các hãng xe uy tín chuyên khai thác tuyến Châu Đốc gồm Phương Trang, Huệ Nghĩa, Hùng Cường, Kim Ngân,... với giá từ 140.000 đến 180.000 đồng một vé. Tại Châu Đốc, du khách có thể thuê xe máy với giá 90.000 - 130.000 đồng mỗi ngày (tùy loại) để tiện di chuyển tham quan.
Lưu trú
Hệ thống nhà nghỉ, khách sạn ở Châu Đốc khá nhiều, giá từ 150.000 đến 300.000 đồng một phòng. Tuy nhiên, du khách nên đặt sớm khi đi vào những dịp cao điểm như Lễ Vía Bà, Tết âm lịch để có mức giá hợp lý.
Điểm tham quan
Miếu Bà Chúa Xứ: Tọa lạc dưới chân núi Sam, phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc. Miếu Bà được xây dựng với kiến trúc tháp dạng hoa sen nở, mái tam cấp ba tầng, ngói xanh cùng với các hoa văn đậm nét nghệ thuật. Hàng năm từ ngày 23 đến 27/4 âm lịch, người dân nơi đây tổ chức lễ hội Vía Bà nhằm cầu nguyện và tưởng nhớ công lao của người giúp dân dẹp loạn, ban mưa thuận gió hòa.
Một góc kiến trúc Miếu Bà Chúa Xứ nhìn từ bên ngoài. Ảnh: Mến Nguyễn.
Tây An Cổ Tự: Ngôi chùa có khuôn viên rộng đến 1,5 ha được xây vào năm 1847, theo lối kiến trúc chữ "tam" gồm hai tầng mái và chính điện thờ khoảng hơn 150 pho tượng Phật lớn nhỏ. Điểm nhấn của chùa là ngôi tháp chính có nóc tròn hình củ hành được trang trí cầu kỳ như những ngôi đền của Ấn Độ. Phía trước cổng có hai tượng voi trắng và đen.
Lăng Thoại Ngọc Hầu: Tọa lạc dưới chân núi Sam, nơi đây thờ ông Thoại Ngọc Hầu - người có công trong việc khai phá, trấn giữ vùng đất An Giang và hai phu nhân. Lăng được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1997.
Làng bè Châu Đốc: Du khách ngồi trên xuồng máy để tham quan làng bè, nằm trên quãng sông chảy từ thành phố Châu Đốc đến Cồn Tiên. Trong bè, người dân chủ yếu nuôi các loại cá như tra, ba sa,...nhằm phục vụ nhu cầu xuất khẩu.
Chùa Huỳnh Đạo: Tọa lạc tại khóm Vĩnh Đông II, phường Núi Sam, Châu Đốc, chùa thành lập vào năm 1928 và tới 1996 được di dời đến khu đất rộng 12 hecta. Ngôi chùa mới gồm chính điện, nhà hậu Tổ, điện Quan Âm... với thiết kế trang nghiêm, mỹ lệ.
Làng Chăm Châu Giang: Du khách qua phà Châu Giang là tới làng Chăm Châu Giang, thuộc xã Châu Phong, thị xã Tân Châu, nơi có đồng bào người Chăm sinh sống. Làng bình yên với những thánh đường Hồi giáo cùng nhiều ngôi nhà sàn truyền thống độc đáo. Đến với làng Chăm, du khách có dịp hiểu biết thêm về văn hóa, sản phẩm dệt thủ công và thưởng thức hương vị ẩm thực độc đáo nơi đây.
Kênh Vĩnh Tế: Với chiều dài gần 90 km nối liền Châu Đốc với cửa biển Hà Tiên, kênh được hoàn thành trong 5 năm từ 1819 đến 1824. Kênh đào được thực hiện dưới sự chỉ đạo của ông Thoại Ngọc Hầu cùng người dân địa phương bằng các công cụ thô sơ và chủ yếu là tay.
Núi Sam: Núi có độ cao 241 m, có khung cảnh thiên nhiên thơ mộng và những ngôi đền, chùa nằm rải rác, tạo thành một không gian linh thiêng và huyền bí. Du khách có thể leo bậc để lên đỉnh núi hoặc đi xe máy men theo con đường nhựa gần 5 km. Phí thuê xe ôm cho cả chiều đi và về là khoảng 50.000 đồng. Bạn sẽ mất khoảng một buổi để leo núi và hành hương.
Quang cảnh nhìn từ đỉnh núi Sam. Ảnh: Mến Nguyễn.
Ăn uống
Bún cá: Món ăn gồm các nguyên liệu như cá lóc gỡ xương, bún, nước lèo màu vàng nghệ, rau sống và một ít thịt heo quay, tôm khô. Nước chấm không thể thiếu là một chén muối ớt chanh. Một tô bún cá có giá khoảng 15.000 - 20.000 đồng.
Thốt nốt: Cây thốt nốt có quả tròn và màu tím nhẵn bóng, trổ thành từng chùm từ 15 đến 20 quả. Dùng dao khéo léo tách quả thốt nốt để lấy thịt. Thịt thốt nốt giòn mềm, có vị béo mùi thơm thoảng. Nước thốt nốt có vị ngọt lịm thanh mát được ướp lạnh làm đồ giải khát. Giá một ly là 7.000 đồng. Thốt nốt còn được dùng để chế biến đường, nguyên liệu làm bánh bò...
Tung lò mò: Món ăn đậm chất truyền thống của đồng bào Chăm tại An Giang còn gọi là lạp xưởng bò. Đặc sản này được làm từ ruột, mỡ, và đùi bắp bò đã được lóc từ xương. Sau khi khử mùi bằng rượu và gừng, hỗn hợp thịt bò được trộn theo tỷ lệ nhất định cùng với các loại gia vị cổ truyền của người Chăm. Hỗn hợp này được nhồi vào ruột bò rồi phơi 3-4 nắng thì có thể dùng được. Tung lò mò ngon nhất là được nướng trên bếp than hồng ăn kèm với rau quế, dưa đu đủ, ngò gai và nước chấm là tương phở vừa đủ độ cay. Giá một cân tung lò mò vào khoảng 160.000 -180.000 đồng.
Mắm Châu Đốc: Mắm ở đây có chất lượng và hương vị độc đáo, không nhằm lẫn với nơi khác, được dùng để chế biến các món như chưng thịt băm, lẩu hoặc kho...
Những "dãy núi" mắm các loại bán ở Châu Đốc. Ảnh: Mến Nguyễn.
Quà mang về
Tung lò mò, mắm, thốt nốt,... là những món quà có một không hai cho người thân, bạn bè mỗi khi đến tham quan và hành hương về mảnh đất Châu Đốc.
Theo VNE
Một ngày ở Búng Bình Thiên Bên cạnh những cái tên quá nổi tiếng như rừng tràm Trà Sư, Tri Tôn, cánh đồng Tà Pạ, núi Sam..., Búng Bình Thiên cũng là địa danh hút khách du lịch bậc nhất ở An Giang những năm gần đây. Nằm đầu nguồn sông Mekong, giáp biên nước bạn Campuchia, An Giang mang vẻ đẹp đặc trưng nhất của miền Tây sông...