Nữ giáo sư cả đời cống hiến cho khoa học và công nghệ môi trường
Nối tiếp truyền thống làm khoa học của gia đình, bà Đặng Thị Kim Chi tận tâm cống hiến. Luôn nhớ như in lời cha dạy “Việc học là việc của suốt cả cuộc đời”, bà đã cần mẫn “chinh phục” lĩnh vực bảo vệ môi trường trong nghiên cứu khoa học và đào tạo, mang lại những lợi ích cho xã hội.
Giáo sư Đặng Thị Kim Chi
Nối tiếp truyền thống gia đình
Giáo sư Đặng Thị Kim Chi là con gái út của Giáo sư – Bác sĩ Đặng Vũ Hỷ (được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu tiên năm 1996). Sự cần mẫn nghiên cứu y học của người cha đã thấm sâu vào tâm trí của bà, đó chính là tấm gương để bà noi theo trong suốt cuộc đời cống hiến cho khoa học sau này.
Bà Kim Chi kể câu chuyện vui, ngày còn bà đang học tiểu học, vào mỗi buổi tối khi nhìn thấy cha ngồi ở bàn làm việc rất lâu, bà thường đùa rằng: “Con mà là giáo sư như ba thì không cần phải học nữa, không cần phải làm việc khuya như thế nữa”. Giáo sư Đặng Vũ Hỷ cười lớn và nói với con gái yêu: “Nếu con nghĩ thế thì sẽ không bao giờ trở thành giáo sư được”, ông cũng luôn nhắc với các con rằng “Việc học là việc của cả cuộc đời, hãy luôn cố gắng”.
Giáo sư Đặng Thị Kim Chi
Đặng Thị Kim Chi đã nối tiếp truyền thống gia đình, theo học ngành Công nghệ Hóa học tại Đại học Bách khoa Hà Nội. Tốt nghiệp đại học vào năm 1971 với tấm bằng loại giỏi, bà được nhà trường giữ làm giảng viên. Năm 1978, bà được trường ĐH Bách khoa Hà Nội cử đi nghiên cứu sinh tại Công hòa Dân chủ Đức, chuyên ngành Kỹ thuật bảo vệ môi trường.
Đối với nhiều người, được cử đi nước ngoài học là một vinh dự, bà Kim Chi cũng vậy nhưng đằng sau đó còn là sự hy sinh to lớn mà chỉ có người phụ nữ ở trong hoàn cảnh ấy mới cảm nhận được.
“Ở xứ người, có những thời gian phải tiến hành các thí nghiệm phục vụ cho đề tài nghiên cứu, chúng tôi đã phải ra khỏi kí túc xá khi đèn đường chưa tắt và khi rời phòng thí nghiệm trở về đèn đường đã sáng, tuyết rơi trắng xóa trong cái lạnh dưới 0 độ C. Những ngày khó khăn đó ở phương xa, đôi khi khiến tôi buồn và nhớ nhà nhưng cứ nghĩ đến hình ảnh người chồng là bộ đội bế con nhỏ vẫy tay ở sân bay Nội Bài, trong lòng tôi quặn nỗi nhớ và tôi càng phải quyết tâm hơn để hoàn thành xứ mệnh được giao, để mau chóng trở về với gia đình”, bà nhớ lại khoảng khắc của gần 50 năm về trước.
Khi bà sang Đức tu nghiệp, con trai mới lên 5, khi mẹ trở về thì cậu bé đã lên 9, đó là quãng đường quá dài đối với một người mẹ và của cả chồng, con bà. Nhưng vì khoa học, bà phải kiên cường và vững bước. Thành quả sau những hy sinh thầm lặng ấy là sự chinh phục học vị Tiến sĩ (năm 1982) tai Đưc, chuyên ngành là Khoa học và Công nghệ Môi trường.
Về Việt Nam, bà tiếp tục làm giảng viên tại ĐH Bách khoa Hà Nội. Ngoài giảng dạy, bà đã xin được tham gia các đề tài ứng dụng vào thực tế, triển khai các công trình tại một số nhà máy hóa chất và nhà máy vật liệu xây dựng để tích lũy thêm kinh nghiệm. Bà cùng với 6 cán bộ thành lập nhóm nghiên cứu về Kỹ thuật Bảo vệ môi trường – Bộ môn Kỹ thuật Môi trường, sau đó phát triển thành Trung tâm khoa học và Công nghệ Môi trường (năm 1994), Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường (năm 1998).
Từ đó tới nay, Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường của ĐH Bách khoa Hà Nội đã trở thành một trong các Viện nghiên cứu và đào tạo kỹ sư, Thạc sĩ, Tiến sĩ thuộc chuyên ngành Bảo vệ Môi trường có uy tín ở Việt Nam. Năm 1996, bà được phong hàm Phó giáo sư và năm 2006, bà đã được nhận hoc ham Giáo sư – là một trong số ít nữ Giáo sư của trường ĐH Bách khoa Hà Nội ngày đó.
Cống hiến vì môi trường Việt Nam
Nói về chuyên ngành mình theo đuổi và cống hiến suốt 50 năm qua, Giáo sư Đặng Thị Kim Chi cho biết, bà say mê nghiên cứu về môi trường bởi đây là yếu tố tác động trực tiếp và lâu dài đến sức khỏe của người dân. Đặc biệt, vào năm 2000, khi được tiếp xúc với một nhà khoa học từ Mỹ đến Việt Nam tìm hiểu về môi trường các làng nghề thủ công, bà nhận ra rằng, vấn đề môi trường tại các làng nghề ở Việt Nam rất cần được quan tâm, vì đây là loại hình ô nhiễm môi trường do các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp quy mô nhỏ, tận dụng mọi lực lượng lao động lúc nông nhàn nằm trong vùng nông thôn việt nam. Chính vì vậy, bà đã chuyên tâm nghiên cứu theo hướng này.
Bà say mê nghiên cứu về môi trường bởi đây là yếu tố tác động trực tiếp và lâu dài đến sức khỏe của người dân
Để di chuyển đến khắp các làng nghề trên cả nước cũng lắm gian nan. Thời điểm ấy, việc đi lại không thuận tiện như bây giờ, làng nghề thường không nằm ở vị trí trung tâm, phương tiện đi lại chủ yếu là xe máy, xe đạp, song bà đã đến tận thôn, bản gặp già làng, trưởng thôn, các nghệ nhân làng nghề để tìm hiểu.
Để tìm ra biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường tại các làng nghề trong nước, bà còn tranh thủ các chuyến đi tập huấn hoặc tham quan tại một số nước châu Á như Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Thái Lan… học hỏi kinh nghiệm
Video đang HOT
“Không một đất nước nào có mật độ làng nghề tại vùng đồng bằng cao như ở Việt Nam. Loại hình làng nghề ở Việt Nam hết sức đa dạng”, Giáo sư Đặng Thị Kim Chi chia sẻ.
Sau khi đã triển khai và tham gia điều tra khảo sát một số làng nghề tại khu vực đồng bằng Bắc bộ, từ năm 2003, Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường và Giáo sư Đặng Thị Kim Chi là chủ nhiệm đề tài đã được giao nhiệm vụ triển khai đề tài Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước “Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm đề xuất các chính sách và giải pháp cải thiện môi trường tại các làng nghề Việt Nam”, thuộc Chương trình Khoa học công nghệ cấp nhà nước về Bảo vệ Môi trường, tài nguyên và phòng tránh thiên tai.
Từ kết quả của đề tài cấp nhà nước, GS Đặng Thị Kim Chi cùng với các đồng nghiệp của mình phối hợp với các nhà khoa học, các nhà quản lý môi trường tại các bộ, ngành, các tỉnh và địa phương tiếp tục làm rất nhiều đề tài cụ thể như giải quyết vấn đề môi trường tại làng nghề ở Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương…; triển khai ứng dụng mô hình cải thiện môi trường tại một số làng nghề điển hình theo 7 loại hình sản xuất các sản phẩm khác nhau (gồm làng nghề chế biến lương thực thực phẩm, thủ công mỹ nghệ, vật liệu xây dựng, dệt nhuộm, tái chế giấy, tái chế nhựa và kim loại).
Giáo sư Đặng Thị Kim Chi đã chủ trì và tham gia 48 đề tài dự án, nhiệm vụ khoa học công nghệ các cấp liên quan đến Khoa học và Công nghệ môi trường. Trong đó có 6 đề tài Khoa học và Công nghệ cấp nhà nước và 42 đề tài dự án nhiệm vụ khoa học cấp bộ, tỉnh thành phố hoặc tương đương. Bà cũng công bố 80 công trình trên các tạp chí và Hội thảo Khoa học trong nước, quốc tế.
Năm 2007, Giáo sư Đặng Thị Kim Chi đã vinh dự được trao Giải thưởng Kovalevskaia.
Trái tim nhân hậu của nhà khoa học nữ xuất sắc nhận giải Kovalevskaia
PGS.TS Trương Thanh Hương, ĐH Y Hà Nội vừa nhận Giải thưởng Kovalevskaia chia sẻ: "Giải thưởng này chứng tỏ rằng tôi đã chọn được một con đường đúng đắn để đi tới trong cuộc đời y thuật của mình".
PGS.TS. giảng viên Cao cấp, NGƯT Trương Thanh Hương, trường ĐH Y Hà Nội, nguyên là Trưởng phòng Q2 Tim mạch nhi và tim bẩm sinh, Trưởng phòng Nghiên cứu khoa học Viện Tim mạch Bệnh viện Bạch Mai là cá nhân duy nhất vừa vinh dự nhận Giải thưởng Kovalevskaia năm 2020 - một giải thưởng quốc tế dành cho các nhà khoa học nữ tại Việt Nam, nhằm ghi nhận những đóng góp của phụ nữ trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học tự nhiên - một lĩnh vực có vai trò then chốt trong nền kinh tế tri thức.
PGS.TS Trương Thanh Hương
Công trình nghiên cứu điều trị đã tiết kiệm hàng trăm tỷ mỗi năm
Trong 35 năm công tác tại Viện Tim mạch Quốc gia, Bệnh viện Bạch Mai và Bộ môn Tim mạch, Trường Đại học Y Hà Nội, PGS.TS Trương Thanh Hương có rất nhiều sản phẩm công trình nghiên cứu khoa học được công nhận và chuyển giao có ý nghĩa rất lớn về kinh tế, xã hội.
Tiêu biểu như công trình: "Xây dựng bản đồ đột biến gen bệnh tăng cholesterol máu gia đình và đề xuất mô hình quản lý bệnh tại Việt Nam" được Bộ Khoa học và Công nghệ nghiệm thu và cấp giấy xác nhận.
Theo ước tính, Việt Nam có gần 500.000 bệnh nhân mắc bệnh tăng cholesterol. Bệnh di truyền ảnh hưởng đến các thế hệ trong gia đình, từ người lớn đến trẻ nhỏ, cần ngăn chặn việc phát tán nguồn gen bệnh và phòng chống biến chứng gây tàn phế, thậm chí gây tử vong như nhồi máu cơ tim, đột quỵ não, xơ vữa động mạch.
Chính nhờ công trình nghiên cứu của PGS.TS Trương Thanh Hương mà bệnh nhân và gia đình họ có thể tiếp cận được việc chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh tối ưu, giảm chi phí điều trị biến chứng, bảo toàn lực lượng lao động vì biến chứng của bệnh xuất hiện ở lứa tuổi trẻ.
Việc quản lý và chăm sóc bệnh lý di truyền này bao gồm việc chăm sóc, phát hiện, chẩn đoán, chữa bệnh cho cả gia đình gồm nhiều thế hệ, điều này giúp ổn định xã hội. Đặc biệt, PGS.TS Trương Thanh Hương và nhóm nghiên cứu thực hiện đề tài này với kinh phí tự túc.
PGS.TS Trương Thanh Hương trao đổi cùng chuyên gia nước ngoài trong lần thăm khám bệnh nhi.
Công trình nổi bật thứ hai của PGS.TS Trương Thanh Hương là: " Khảo sát một số đa hình thường gặp của gen CYP2C19 liên quan đến đáp ứng thuốc clopidogrel ở người mắc bệnh động mạch vành tại Việt Nam ", đề tài nhánh Dự án "Ứng dụng công nghệ gen trong sản xuất chíp sinh học phục vụ chẩn đoán và điều trị một số bệnh lý", thuộc Chương trình Quốc gia phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao.
Công trình có ý nghĩa rất lớn đó là việc chế tạo chíp sinh học chẩn đoán nhanh đa hình gen CYP2C19 liên quan đến đáp ứng thuốc Clopidogrel đặc hiệu cho người Việt Nam có ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn, giúp hiện thực hóa việc cá thể hóa điều trị thuốc chống ngưng tập tiểu cầu Clopidogrel tại Việt Nam.
Sản phẩm đã được sản xuất thử nghiệm và thương mại hóa sản phẩm chíp sinh học đầu tiên tại Việt Nam.
PGS.TS Trương Thanh Hương cho biết, với hàng trăm nghìn bệnh nhân mắc bệnh mạch vành, việc sử dụng chíp sinh học này trong cá thể hóa điều trị có thể giảm tối đa các biến chứng và tử vong, nhờ đó có thể tiết kiệm hàng trăm tỷ đồng mỗi năm cho đất nước.
Được biết, sản phẩm từ công trình này cũng là tài liệu tham khảo trực quan cho giảng dạy và nghiên cứu của nghiên cứu sinh, học viên cao học và bác sỹ và những người quan tâm đến ứng dụng dược học di truyền trong cá thể hóa điều trị.
Trong quá trình công tác, PGS.TS Trương Thanh Hương đặc biệt quan tâm tới đối tượng ưu tiên là trẻ em (Ảnh chụp năm 2019)
Trẻ em phải là đối tượng được ưu tiên nhất
PGS.TS Trương Thanh Hương tham gia xây dựng và phát triển chuyên ngành tim bẩm sinh tại Việt Nam, đồng thời là một trong những nhà khoa học đầu tiên tham gia thành lập Phòng C5 Tim mạch - hiện nay là Phòng Q2 tim mạch trẻ em và tim bẩm sinh.
Hiện phòng Q2, trở thành đơn vị hạt nhân của Bệnh viện Bạch Mai trong công tác điều trị bệnh tim bẩm sinh, với hàng nghìn trẻ em và người lớn mắc bệnh tim bẩm sinh đã được điều trị kịp thời và trở về cuộc sống bình thường, tiếp đến, đơn vị sẽ mở rộng thêm lĩnh vực tim bào thai.
Lý do khiến nữ bác sĩ quyết tâm nghiên cứu để tìm ra những nguyên nhân dẫn đến tổn thương trái tim là có những em bé mới lọt lòng mẹ đã mắc bệnh tim, phải sống chung cùng bệnh cả đời. Trong khi đó, trẻ em là sợi dây gắn kết các thành viên trong gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội. Tế bào khỏe thì xã hội mới khỏe mạnh, phát triển bền vững.
Kỷ niệm sâu sắc nhất mà PGS.TS Trương Thanh Hương nhớ mãi, cô chia sẻ: "Tôi nhớ, có một buổi trưa, tất cả mọi người đều chuẩn bị đi ăn cơm thì một người đàn ông mang đến một cô gái nhỏ tim bị đập nhanh bất thường.
Tôi siêu âm cho cháu và phát hiện đây là ca bệnh rất phức tạp, trong điều kiện bản thân mình vừa đói vừa mệt, vừa kết thúc ca khám bệnh buổi sáng túi bụi, quay cuồng. Thế nhưng khi đứng trước đứa bé ấy tôi đã quên hết.
Lúc đó, phòng siêu âm vắng lặng, mọi người đã đi nghỉ, tôi cứ hì hục chữa trị cho cháu. Bệnh của cháu không phải là bệnh tim thông thường khi thất phải và thất trái hoạt động ngược so với bình thường.
Khi bé qua cơn nguy kịch, tôi tư vấn bố mẹ cháu định hướng cho cháu thuốc điều trị, sửa chữa một số dị tật kèm theo khác. Hiện nay, cô gái này đã tốt nghiệp đại học, trưởng thành và là một cán bộ xinh đẹp, giờ đã có hai đứa con".
Chính vì vậy, thời gian qua, PGS.TS Trương Thanh Hương cùng các đồng nghiệp, tổ chức các đoàn khám bệnh thiện nguyện đến các trường học và khu dân cư ở các vùng sâu vùng xa của Tổ quốc, với đối tượng ưu tiên là trẻ em.
Được biết, PGS. TS. Trương Thanh Hương là thành viên ban đầu của dự án triển khai hệ đào tạo Bác sỹ Y học gia đình tại Việt Nam. Đây là dự án y tế giúp giảm tải cho bệnh viện trung ương và tăng cường chất lượng chăm sóc y tế tại tuyến cơ sở.
PGS.TS Trương Thanh Hương
Giúp đỡ bằng kiến thức là sự giúp đỡ hiệu quả nhất
Với 35 năm giảng dạy và nghiên cứu tại trường ĐH Y Hà Nội, PGS. TS Trương Thanh Hương luôn đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy giúp tăng cường tính chủ động, tích cực tự học của sinh viên.
Đặc biệt cô đã áp dụng các kiến thức mới được đào tạo tại Úc về phương pháp giảng dạy tăng cường năng lực lâm sàng như Objective Structural Clinical Examination (OSCEs), Mini Clinical Evaluation Excerise (Mini-CEX) cho sinh viên ngành y, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học tại Trường Đại học Y Hà Nội.
PGS.TS. Trương Thanh Hương đã tích cực đào tạo nhân lực chất lượng cao cho ngành Y tế, thông qua hướng dẫn khoa học cho hơn 40 tiến sỹ, thạc sỹ, bác sỹ nội trú và trực tiếp giảng dạy, chuyển giao các công nghệ tiên tiến trong thăm dò, chẩn đoán, điều trị bệnh lý tim mạch cho hàng trăm bác sỹ, nhân viên y tế tại các cơ sở y tế trong cả nước.
Đồng thời, cô đã chủ trì và tham gia 19 đề tài khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, cơ sở và đề tài hợp tác quốc tế và công bố 75 bài báo khoa học trong và ngoài nước, tham gia biên soạn, chủ biên 20 giáo trình, chuyên khảo, tài liệu hướng dẫn .
Đội sinh viên NCKH của cô Hương đạt giải nhất trong Diễn đàn sinh viên NCKH tại Đại hội Tim mạch toàn quốc năm 2016
Những hoạt động của PGS. TS Trương Thanh Hương góp phần là cầu nối của ngành y tế Việt Nam với quốc tế thông qua các đóng góp ngang tầm trong nghiên cứu khoa học và hợp tác sáng tạo với các nhà khoa học, các nghiệp đoàn khoa học lớn trên thế giới như Pháp, Hoa Kỳ, Úc, Nhật Bản...
Từ những kết nối quan trọng đó, nhiều bác sĩ, nhà khoa học trẻ đã có cơ hội tiếp cận, học tập và phát triển năng lực trong môi trường khoa học quốc tế, là tiền đề quan trọng để nâng cao năng lực khoa học của Việt Nam.
Ngoài truyền đạt về chuyên môn PGS.TS Trương Thanh Hương luôn tận tâm chỉ cho học trò của mình cách ứng xử trong thực tế, cô cho rằng: "Một thầy giáo xuất sắc là một thầy giáo biết cách truyền cảm hứng cho học trò chứ không chỉ truyền kiến thức.
"Trăm nghe không bằng một thấy", thầy có nói cả trăm điều cũng không bằng một buổi cho học trò đi tiếp xúc thực tế, gặp gỡ người bệnh trong đó gồm: cách tiếp cận, giải quyết vấn đề, phong thái với người già thế nào, trẻ em, bậc trung niên hay nam thanh nữ tú ra sao?... Đó không chỉ là những vấn đề xuôi chiều, cả những trường hợp gay cấn trong bệnh viện thì mình giải quyết thế nào?".
Bằng hành động trực tiếp của mình, từ các hoạt động như buổi sáng đi buồng bệnh, tiếp xúc với người nhà bệnh nhân, kê thuốc ra sao hay buổi tối trực, đi hội chẩn, đi xuống cộng đồng, đi ra nước ngoài... đi đâu cô Hương cũng dẫn sinh viên đi cùng.
Điều cơ bản mà cô Hương mong muốn là tạo cho các sinh viên nền tảng cơ bản về phương pháp, kỹ năng, cách suy nghĩ, tính chủ động cao trong học tập, nghiên cứu khoa học. Phải nỗ lực hết mình, luôn tìm tòi, xác lập con đường của mình trong suốt cả cuộc đời. Phải liên tục tích lũy kiến thức, kỹ năng để theo đuổi con đường đã chọn.
Rút ra kinh nghiệm từ chính bản thân mình, PGS.TS Trương Thanh Hương chia sẻ: "Mỗi khó khăn như phép thử để mỗi người tự rèn mình. Không ai bỗng dưng ngủ dậy sau một đêm trở thành người giỏi, người thành công. Được làm việc là được trưởng thành.
Chẳng hạn tôi thi vào nội nội trú sau tốt nghiệp, cuộc thi vào đó vô cùng khó khăn phải học rất nhiều. Nếu gọi đó là cái khổ thì tại sao mình lại thi vào. Tôi tự biết, đây là môi trường giúp mình được rèn luyện, tiếp cận với những thầy cô giỏi, tâm huyết với nghề, được có những bậc để bước tiếp.
Trong nghề Y, phải rèn nghề đến mức chỉ cần người ta lướt qua là có thể cảm nhận được họ đến đây điều trị bệnh gì..."
PGS. TS. Trương Thanh Hương (phải ảnh) nhận Giải thưởng Kovalevskaia năm 2020 do Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Hà Thị Nga trao
Giải thưởng Kovalevskaia làm tăng niềm tin của người bệnh
Vinh dự khi được nhận Giải thưởng Kovalevskaia năm 2020 - một giải thưởng thể hiện mạnh mẽ về tài năng, khả năng, sức sáng tạo và trí tuệ của nhà khoa học nữ Việt Nam trên con đường chinh phục nhiều đỉnh cao khoa học, nữ bác sĩ có trái tim nhân hậu PGS.TS Trương Thanh Hương chia sẻ: "Giải thưởng này chứng tỏ rằng tôi đã chọn được một con đường đúng đắn để đi tới trong cuộc đời y thuật của mình.
Đó là con đường nghiên cứu khoa học - hợp tác toàn cầu - nhằm phục vụ thực tiễn phòng bệnh chữa bệnh tim mạch, giảng dạy và đào tạo các bác sĩ, thạc sĩ, tiến sĩ ngành y gắn với việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Câu đầu tiên của thầy tôi - GS.TS NGND Anh hùng Lao động Phạm Gia Khải, khi thầy biết tôi đạt được giải thưởng này là, thầy nói: "Vậy là Hương đã đi con đường đúng".
Theo PGS.TS Trương Thanh Hương, giải thưởng là nguồn động lực thu hút các bác sĩ trẻ đặc biệt là các nữ bác sĩ tim mạch lâm sàng tiến quân vào con đường khoa học ứng dụng.
Đó là ứng dụng các kiến thức hàn lâm và lâm sàng không chỉ trong việc chữa bệnh nhân đến bệnh viện mà còn chủ động đi tìm bệnh nhân trong cộng đồng làng xã để mà chữa trị và phòng bệnh, nhằm giảm dòng bệnh nhân bị bệnh nặng phải đến bệnh viện gây quá tải bệnh viện.
"Giải thưởng càng làm tăng niềm tin của người bệnh đã dành cho chúng tôi trong hành trình sàng lọc phát hiện bệnh và chữa trị cho họ. Giải thưởng đề cao vai trò của phụ nữ sẽ là một cái mở đầu giúp cho mình có vị thế đi tiếp, truyền đạt với người xung quanh, đặc biệt là thế hệ đi sau, các học trò tiếp bước" - PGS.TS Trương Thanh Hương bày tỏ.
Với những đóng góp cho ngành y tế, PGS.TS Trương Thanh Hương đã vinh dự được nhận Huân chương Lao động hạng III, danh hiệu Nhà giáo Ưu tú và Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Y tế, Bộ GD&ĐT.
"Mỗi em bé khỏe mạnh chào đời là động lực để tôi tiếp tục say mê cống hiến" Hành trình làm khoa học của chỉ lắm chông gai, song cũng mang lại nhiều "trái ngọt" khi chị giúp nhiều gia đình chào đón thêm những em bé khỏe mạnh. PGS.TS.BS Trần Vân Khánh (phải) cùng cộng sự miệt mài trong phòng nghiên cứu. Ảnh: NVCC. Ảnh: NVCC Vinh dự được xướng tên Giải thưởng Kovalevskaia ở tuổi 44, cho đến nay,...