Nữ CN nhặt vàng ở Cà Mau: Không có căn cứ để trả lại đơn kiện
Việc TAND TP. Cà Mau không thụ lý vụ án, mà trả lại đơn kiện cho bà Mai là trái với các quy định của Luật Tố tụng hành chính hiện hành.
Vừa qua, TAND TP. Cà Mau có thông báo trả lại đơn kiện của bà Phạm Tuyết Mai (36 tuổi, ngụ xã Tân Dân, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau), người nhặt được gần 5 lượng vàng khi phân loại rác tại Nhà máy xử lý rác thải TP. Cà Mau, với lý do, Trưởng Công an TP. Cà Mau ra thông báo trả lại toàn bộ số vàng nữ trang cho chủ sở hữu là hoạt động nghiệp vụ của cơ quan công an, không phải quyết định hành chính hay hành vi hành chính. Vụ việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án.
Luật sư Hồ Ngọc Diệp (Đoàn Luật sư TP. HCM)
Hoạt động nghiệp vụ là hoạt động gì?
Trước hết, cần xác định rằng, theo quy định của pháp luật, trong vụ việc này, thẩm quyền xử lý tài sản của Công an TP. Cà Mau đối với 5 lượng vàng do bà Mai giao nộp, chỉ có thể được tiến hành theo hai thủ tục:
Một là, thủ tục tố tụng hình sự. Đây là trường hợp, sau khi tiếp nhận thông tin về việc trình báo mất tài sản của bà Ngân, cơ quan công an đã ra quyết định khởi tố vụ án “Trộm cắp tài sản”.
Trong trường hợp này, nếu số vàng do bà Mai giao nộp, được xác định là tài sản của bà Ngân bị mất trộm trước đó, thì cơ quan công an có thể ra quyết định giao trả tài sản lại cho chủ sở hữu theo quy định tại Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) về xử lý vật chứng.
Việc giao trả tài sản trong trường hợp này, được tiến hành theo các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, nên không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
Hai là, thủ tục hành chính. Đây là trường hợp cơ quan công an xử lý tài sản theo quy định tại các Điều 239 và 241 Bộ luật dân sự (BLDS). Theo đó, với tư cách là cơ quan tiếp nhận tài sản do người khác nhặt được và mang đến giao nộp (theo quy định tại các Điều 239, 241 BLDS), cơ quan công an có nhiệm vụ thông báo để tìm chủ sở hữu tài sản. Nếu quá thời hạn thông báo mà không có người đến nhận, thì căn cứ quy định tại các Điều 239, 241 BLDS, giao lại tài sản cho người tìm thấy, nhặt được để họ xác lập quyền sở hữu theo các điều luật nêu trên.
Trường hợp có sự tranh chấp về quyền sở hữu tài sản giữa người nhặt được và người cho rằng mình là chủ sở hữu tài sản, thì cơ quan công an cũng không có thẩm quyền công nhận hoặc giao tài sản cho bất kỳ bên nào, mà cần chuyển hồ sơ vụ việc sang toà án để cơ quan này giải quyết theo quy định của pháp luật.
Video đang HOT
Ngoài ra, không có bất kỳ một hoạt động nghiệp vụ nào liên quan đến việc xử lý tài sản trong trường hợp này.
Phải xem là hành vi hành chính
Bà Phạm Tuyết Mai
Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính thì, hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.
Tại thời điểm bà Mai giao nộp tài sản nhặt được, cũng như cho đến thời điểm này, cơ quan Công an TP. Cà Mau không có bất kỳ một quyết định khởi tố vụ án hình sự nào theo nội dung trình báo mất vàng của bà Ngân. Hơn nữa, hiện nay bà Ngân cũng đã thừa nhận, số vàng trên là do bà bị thất lạc, chứ không phải bị mất trộm.
Như vậy, việc Công an TP. Cà Mau giao trả lại 5 lượng vàng cho bà Ngân, rõ ràng không thuộc trường hợp xử lý vật chứng, và cũng không phải là hành vi tố tụng trong vụ án hình sự nói chung, mà đây chính là hành vi hành chính, vì nó liên quan đến nhiệm vụ tiếp nhận và giao trả tài sản của cơ quan công an được quy định tại các Điều 239, 241 BLDS.
Việc TAND TP. Cà Mau cho rằng, Trưởng Công an TP. Cà Mau ra thông báo trả lại toàn bộ số vàng nữ trang cho chủ sở hữu, là hoạt động nghiệp vụ của cơ quan công an, không phải quyết định hành chính hay hành vi hành chính, để từ đó không thụ lý vụ án, mà trả lại đơn kiện cho bà Mai là trái với các quy định của Luật Tố tụng hành chính hiện hành.
Luật sư Hồ Ngọc Diệp (Đoàn luật sư TP.HCM)
Theo_Người Đưa Tin
Long đong phận con dấu
Nhiều doanh nghiệp (DN) thay đổi con dấu hay làm dấu mới đang lúng túng bởi không biết phải xử lý với con dấu cũ như thế nào. Nộp trả lại cho cơ quan quản lý nhà nước theo quy định thì không ai nhận, mà không nộp thì lại bị quy tội vi phạm pháp luật và sẽ bị xử phạt vào một lúc bất kỳ.
Con dấu cũ đang khiến nhiều DN lúng túng khi xử lý
Quy định đã có...
Luật Doanh nghiệp 2014 quy định, DN tự chịu trách nhiệm về việc khắc và quản lý con dấu, không phải qua cơ quan công an như trước đây. Đồng thời, DN được phép sử dụng nhiều con dấu.
Tuy nhiên, những DN đã thay đổi con dấu hay làm dấu mới đang có nhiều thắc mắc về việc sử dụng và lưu giữ con dấu cũ như thế nào, nếu vẫn sử dụng có vấn đề gì không?
Về vấn đề này, Nghị định Nghị định 96/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp 2014 có hiệu lực từ ngày 8/12/2015. Theo đó, con dấu DN được quản lý và sử dụng theo quy định sau:
Các DN đã thành lập trước 1/7/2015 tiếp tục sử dụng con dấu đã được cấp cho DN mà không phải thông báo mẫu con dấu cho cơ quan đăng ký kinh doanh. Trường hợp DN làm thêm con dấu, thay đổi màu mực dấu thì thực hiện thủ tục thông báo mẫu con dấu theo quy định về đăng ký DN.
Trường hợp DN đã thành lập trước 1/7/2015 làm con dấu mới theo quy định tại Nghị định này thì phải nộp lại con dấu và Giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu cho cơ quan công an nơi đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu. Cơ quan công an cấp giấy biên nhận đã nhận lại con dấu tại thời điểm tiếp nhận lại con dấu của DN.
Trường hợp DN đã thành lập trước 1/7/2015 bị mất con dấu, mất Giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu thì DN được làm con dấu theo quy định tại Nghị định này. Đồng thời, thông báo việc mất con dấu, mất Giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu cho cơ quan công an nơi đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu.
Như vậy, với quy định trên có thể hiểu rằng, con dấu cũ của DN và giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu đều phải nộp lại cho cơ quan công an khi DN đăng ký và sử dụng con dấu mới. Trường hợp DN vẫn sử dụng con dấu cũ vào một số mục đích trong khi đã được phép sử dụng con dấu mới, DN đó sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
... nhưng khó thực thi
Nhiều DN vừa thực hiện đổi mẫu con dấu mới cho biết, họ đang rất lúng túng trong việc thực hiện quy định trên. Đại diện của DN đến cơ quan công an nơi cấp dấu cũ thì được trả lời, theo quy định mới, cơ quan công an không quản lý con dấu DN. Do đó, sau thời điểm Luật Doanh nghiệp 2014 có hiệu lực, họ không chịu trách nhiệm về con dấu DN và không thực hiện bất kỳ dịch vụ nào liên quan đến con dấu nữa. Cơ quan công an hướng dẫn DN qua Sở Kế hoạch và đầu tư trả dấu. DN về Sở Kế hoạch và đầu tư xin ý kiến thì được trả lời, DN không trả dấu cũng không sao vì con dấu hiện giờ không có giá trị pháp lý. Sở Kế hoạch Đầu tư tại nơi DN đăng ký cũng không thực hiện thu lại con dấu.
Hiện theo các thông tư của ngành công an, nếu DN không nộp lại con dấu cũ khi sử dụng con dấu mới bị phạt từ 500.000-1.000.000 đồng. Có nhân viên Sở Kế hoạch và đầu tư đã tư vấn cho DN rằng, cứ giữ lại con dấu cũ, khi nào bị hỏi thì nộp phạt là xong!
Tuy nhiên, vị đại diện DN trên cho biết, họ muốn tuân thủ đúng các quy định pháp luật khi thực hiện đổi tên công ty và thay đổi con dấu. Trong trường hợp này, DN biết xử lý cách nào? Từ câu chuyện này, ông cũng mong muốn các cơ quan xây dựng luật có những hướng dẫn đồng bộ, liên tịch giữa các cơ quan liên quan để DN không mất nhiều thời gian, công sức trong việc thực hiện các thủ tục hành chính, đồng thời luôn có thể chấp hành đúng các quy định pháp luật.
Điều 44, Luật Doanh nghiệp 2014 quy định về con dấu của doanh nghiệp như sau:
1. Doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu của doanh nghiệp. Nội dung con dấu phải thể hiện những thông tin sau đây:
a) Tên doanh nghiệp;
b) Mã số doanh nghiệp.
2. Trước khi sử dụng, doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo mẫu con dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.
3. Việc quản lý, sử dụng và lưu giữ con dấu thực hiện theo quy định của Điều lệ công ty.
4. Con dấu được sử dụng trong các trường hợp theo quy định của pháp luật hoặc các bên giao dịch có thỏa thuận về việc sử dụng dấu.
5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Trần Hà
Theo_Tin Nhanh Chứng Khoán
Vụ con chó cắn chết người tại Thanh Hóa: Có khởi tố? Do chủ nhân của chú chó dại cắn tử vong một người tại huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa đã tử vong nên sẽ không có căn cứ để khởi tố vụ án. Mới đây, tại khu phố 2 thị trấn Lang Chánh, Thanh Hóa vừa xảy ra vụ việc 7 người bị chó dại cắn, trong đó thương tâm hơn cả là...