NSND Trà Giang: Ngôi sao sáng trên bầu trời điện ảnh Việt Nam
Tại Liên hoan phim (LHP) Quốc tế Moscow năm 1973, một vinh quang lớn đã đến với điện ảnh Việt Nam – nữ diễn viên Trà Giang đã giành giải Diễn viên xuất sắc.
Với vai Dịu trong “Vĩ tuyến 17, ngày và đêm”, chị đã chinh phục ban giám khảo gồm nhiều nhà làm phim nổi tiếng thế giới. Với giải thưởng này, điện ảnh thế giới đã ghi nhận và đánh giá cao công việc diễn xuất cũng như làm phim của Việt Nam.
Cần phải nói một chút về LHP Moscow, đó là LHP lớn nhất của phe XHCN trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Phương Tây có LHP Cannes, Venice, Tây Berlin… Phe XHCN có LHP Moscow, Karnovy Vari, Leipzig… Điện ảnh miền Nam cũng tham gia một số LHP quốc tế.
Tôi hỏi: Ai là người đầu tiên hướng chị vào con đường điện ảnh?
Chị nhắc tới ba chị. Ông Nguyễn Văn Khánh. Đọc “Nhật ký Chu Cẩm Phong” cùng các hồi ức của anh em văn nghệ khu V những năm chống Mỹ, tôi được biết, các nhà văn thường gọi ba chị là ông Khánh “Cao”. Chị nói, ba chị cao lắm, trên mét tám. Ba mẹ chị sinh được 6 người con. Ông bà tôn trọng sở thích từng người. Riêng chị có năng khiếu nghệ thuật. Chính ông là người phát hiện thiên hướng và tiềm năng diễn xuất trong con gái mình.
Ngày đó, theo ba mẹ tập kết ra Bắc, chị mới hơn 10 tuổi, học ở Hải Phòng, trường học sinh miền Nam. Cô bé Trà Giang gầy ngẳng, cao nghều. Suốt ngày diện dép cao su, quần kaki, chưa có dáng thiếu nữ. Nhưng, ba chị thường chụp ảnh con gái. Ông dõi theo chị từng ngày. Năm chị 17 tuổi, ông viết thư cho chị. Nói rằng, ở Hà Nội sắp có đợt thi tuyển diễn viên vào Trường Điện ảnh Việt Nam. Ông nói chị đăng ký thi qua Sở Văn hóa Hải Phòng. Chị làm theo. Năm 1959, chị lên Hà Nội thi.
Tôi hỏi, chị còn nhớ bài thi hồi đó không?
Chị kể, trí nhớ của chị có từ khi lên 5. Những gì xảy ra trong ký ức, đến giờ không phai. Còn bài thi, chị nhớ chứ. Bài thi của ông thầy Ajdar Ibrahimov ra: “Diễn tả tâm trạng của một người nhận thư gia đình”. Suy nghĩ một lúc, chị diễn cảnh một cô gái, đang giặt quần áo, bỗng bưu tá gọi ra nhận thư. Cô gái không kịp rửa tay, vừa chạy vừa chùi tay vào vạt áo. Chùi cả lòng và lưng bàn tay. Cô nhận bức thư với thái độ rất trang trọng. Đọc tên người gửi, cô rất vui. Nhưng, khi mở thư ra đọc, cô bỗng khóc. Nỗi xúc động dâng trào. Cô phải bám vào cánh cửa… Bài thi ngắn nhưng diễn xuất của chị đã thuyết phục ban giám khảo.
Còn một bài nữa. Kiểm tra khả năng tập trung. Giữa sự ồn ào của những thí sinh như Lâm Tới, Thế Anh, Tuệ Minh, Ngọc Lan…, đạo diễn Ajdar Ibrahimov đưa cho chị một truyện ngắn. “Em đọc coi!”. Chị cắm cúi đọc. Ngỡ đọc chơi. Nhưng, cuối giờ, ông đạo diễn Liên Xô gọi chị lên hỏi bài. Kể lại nội dung câu chuyện? Đoạn nào nhớ nhất? Tại sao?… “Cũng may, mình là đứa ham đọc sách từ nhỏ nên mình nhớ hết. Lại nói về những vẻ đẹp trong đoạn văn mình thích. Các giám khảo tỏ ra hài lòng…”.
Học xong, Trường Điện ảnh được làm 3 phim. Anh Vũ Sơn làm “Hai người lính”. Anh Nguyễn Văn Thông và anh Trần Vũ làm “Con chim vành khuyên”. Anh Huy Vân và anh Hải Ninh làm “Một ngày đầu thu ” (1961). Hai phim trước là phim ngắn. Chỉ “Một ngày đầu thu” mới là phim dài. Bộ phim rất độc đáo. Các nghệ sĩ dũng cảm kể câu chuyện về đề tài nhạy cảm. Một gia đình Công giáo lưỡng lự trong kháng chiến chống Pháp. Nghệ thuật làm phim rất tuyệt. Vậy mà bộ phim và đạo diễn chính, anh Huy Vân, lại không được may mắn. Nhưng, chị phải rất cảm ơn đạo diễn Huy Vân. Chính anh đã chọn chị vào vai Kiên.
Hồi đó, làm phim, chọn diễn viên rất kỹ. Một người đóng chính, phải có 1-2 người phụ. Đề phòng tình huống phải thay vai. Khi xem nháp, mọi người rất ấn tượng với vai Kiên. Chị hỏi Huy Vân, sao anh lại chọn một cô gái miền Trung đóng vai người đàn bà nông thôn Bắc bộ? Anh nói: “Đâu cũng là người Việt Nam cả. Nói về sự vất vả, phụ nữ miền Bắc hay miền Trung đều không ai kém ai”.
Hơn nữa, khi thử vai, thấy các động tác của Trà Giang trong như đi chợ, gánh nước, quét sân, bế con… trong bối cảnh nhỏ là khu vườn và ngôi nhà, đều đậm nét người đàn bà nông thôn miền Bắc. Đấy là chưa kể, nếu chị ăn vận theo trang phục, quần thâm, yếm vải, áo nâu sồng… thì còn thật hơn cả thật”.
Thì ngày nhỏ, chị sống ở Phan Thiết. Mẹ chị cũng vất vả lắm. Ba hoạt động cách mạng. Mẹ chị chăm sóc mấy con nhỏ. Cùng bà nội làm bánh ra chợ bán. Chị cũng giúp mẹ xay bột, rửa lá… ngon lành lắm. Sau này, chị bật lên trong vai chị Tư Hậu nhưng chị mãi mãi cảm ơn anh Huy Vân. Nếu không có chị Kiên, sẽ không có chị Tư Hậu. Chị Kiên là bậc thang để chị bước lên. Anh Huy Vân chính là người kê cho chị cái bậc thang vững chắc ấy. Vì anh ấy là tác giả kịch bản kiêm đạo diễn chính. Chị phục anh vì ngày đó, anh đã dịch được cuốn sách vĩ đại của N. Ostrovsky “Thép đã tôi thế đấy”.
Đến phim “Chị Tư Hậu”, đạo diễn Phạm Kỳ Nam đã muốn chọn Trà Giang. Song, ông vẫn thận trọng. Nhưng, tác giả “Một chuyện chép ở bệnh viện” – nhà văn Bùi Đức Ái, lại yêu cầu đạo diễn phải chọn cho được một cô gái gốc Nam bộ. Đoàn phim, vì nể, phải cất công đi tìm. Và cũng có nhiều cô gái Nam bộ tập kết ra Bắc, rất xinh, rất đẹp nhưng lại không thể diễn được. Diễn xuất trước ống kính điện ảnh khó gấp nhiều lần trên sân khấu. Ngay các diễn viên sân khấu còn không thể chịu nổi bao ánh đèn chiếu vào thì làm sao diễn viên nghiệp dư làm được. Đạo diễn Phạm Kỳ Nam nói chuyện với nhà văn Bùi Đức Ái nhiều lần về “đặc trưng của điện ảnh”. Cuối cùng, cũng thuyết phục được nhà văn. Nhưng, chưa phải hết. Anh Phạm Kỳ Nam công phu lắm. Yêu cầu chị thử vai chị Tư Hậu trong đoạn ở chòi cá bị thằng Báu định cưỡng hiếp… Rồi chị lao ra biển. Quay thử, đạo diễn rất phấn khởi.
Tuổi thơ của chị cũng đầy cơ cực. Dạo ở Phan Thiết, mẹ chị bị Pháp bắt. Dạo đó, chị còn nhỏ, thấy chiếc xe Jeep của Pháp dừng trước cửa. Tên Pháp xộc vô nhà bắt mẹ chị. Viên thông ngôn nói, đi vài bữa rồi về. Chị cứ đứng nhìn theo. Bà nội dỗ thằng em chị, nó mới được vài tháng tuổi. Địch giam mẹ chị hơn một năm. Trong đồn, bà được phân công gánh nước. Chiều chiều, bà nội lại cõng em chị lên đồn, để mẹ cho bú.
Khi ba chị trở về, ông mang cả gia đình qua Bình Định để tập kết ra Bắc. Chuyến đi ấy thật đáng nhớ. Ghe bầu bị lủng. Nước ngấm vô. Tát không kịp. Không thế đến vị trí tập kết, chiếc ghe dừng lại ở ven biển Quy Nhơn. Lúc đó, trời mờ sáng. Sương phủ dày. Trong bờ, bộ đội và du kích chuẩn bị tấn công. Vì họ được trên thông báo, giặc Pháp sẽ đi càn bằng đường biển. May sao, nghe tiếng trẻ con khóc, quân ta dừng lại, ra đón. Hóa ra người đằng mình. Từ ngày đó, chị đã cảm nhận được giá trị của âm thanh thế nào.
Câu chuyện trong phim, chị Tư Hậu tiễn chồng ra mặt trận. Ở nhà, địch càn, làm nhục. Rồi được tin chồng hi sinh. Chị dần chuyển biến tư tưởng. Chị gửi con cho người thân, tham gia kháng chiến. Bộ phim này giành Huy chương Bạc tại LHP Moscow năm 1963.
Nói về phim “Vĩ tuyến 17, ngày và đêm”, chị ngậm ngùi. Trước khi làm phim, chị phải đi thực tế. Vào đất lửa Khu 4, chị gặp nhiều cảnh đau thương. Nhưng, chị cũng được tiếp xúc với nhiều anh hùng. Đoàn phim được các chiến sĩ tuyến đầu giới thiệu gặp o Thảo, một người phụ nữ Quảng Trị. Trà Giang sửng sốt trước vẻ đẹp của người con gái Quảng Trị. Giữa vùng bom đạn khốc liệt, có một người con gái, nước da trắng ngần, gương mặt phúc hậu. Từ o Thảo tỏa ra sự kiên gan của đất, của sức sống con người trong lửa đạn. Nhưng, vẫn giữ được vẻ dịu dàng của người con gái Việt Nam. Trà Giang được o Thảo kể về cuộc đời mình.
Từ cuộc đời o Thảo, nhà biên kịch Hoàng Tích Chỉ đã hình thành kịch bản “Bão tuyến”. Sau khi đọc, góp ý và bổ sung, đạo diễn Hải Ninh đề nghị đổi tên thành “Vĩ tuyến 17, ngày và đêm. Khi diễn vai Dịu, Trà Giang, ngoài tài năng thiên phú, còn thể hiện những nghị lực kiên cường trong o Thảo. Đó là hình ảnh người phụ nữ Việt Nam, sống trên quê hương đầy mùi thuốc súng nhưng trong trái tim cũng mang những vết thương riêng. Song, họ không khuất phục. Vẫn vươn lên, can trường chiến đấu, gìn giữ quê hương cũng như phẩm giá con người. Bộ phim đã mang cho Trà Giang giải thưởng cao quý tại LHP Moscow năm 1973.
Ngoài ra, bộ phim cũng giành giải của Hội đồng Hòa bình Thế giới. Sau này, Trà Giang cùng đoàn phim tìm về Quảng Trị, thăm o Thảo. Nhưng, tiếc thay, người phụ nữ “đẹp nhất trong lòng chị” đã hi sinh.
Những lần đi thực tế như vậy giúp Trà Giang hiểu nhân vật hơn, hiểu bối cảnh hơn. Vì vậy, xem chị nhập vai trên màn ảnh, khán giả cảm nhận được cả chiều sâu câu chuyện, chiều sâu bối cảnh và chiều sâu nhân vật. Và diễn viên – nhân vật như nam châm, thu hút mọi ánh nhìn của người xem. Tôi cảm tưởng, hình như với vai nào, phong cách diễn xuất của chị cũng hết sức sáng sủa, dễ dàng và tự do. Chị là ngôi sao của lòng nhân hậu và sự dũng cảm trong cuộc sống.
Sau này, chị còn đóng một số phim như “Ngày lễ thánh” (1976), “Huyền thoại về người mẹ” (1987), “Dòng sông hoa trắng” (1989)… Tôi hỏi, chị chọn vai thế nào? Chị cho biết, đọc kịch bản, vai nào chị thấy hợp, thấy yêu mới nhận. Làm việc với nhiều đạo diễn với nhiều phong cách chỉ đạo diễn xuất khác nhau, song chị thích những đạo diễn sâu sát trường quay. Như đạo diễn Huy Vân, ông luôn luôn gây áp lực mỗi khi chị diễn. Đạo diễn Hải Ninh cũng luôn “như hình với bóng” cùng chị trên mỗi thước phim. Đạo diễn Phạm Kỳ Nam lại khác. Ông thường để diễn viên tự do, thể hiện theo cảm nhận của họ. Chị sợ nhất các đạo diễn nào, thường xem chị diễn, rồi nói to: “Được rồi! Tốt rồi! Cắt” nhưng khi xem bản nháp, chị thấy không hài lòng.
Tôi hỏi chị về những bạn diễn. Vì người diễn viên muốn bật lên được, có nhiều yếu tố. Song, không thể thiếu sự hợp tác của bạn diễn. Những vai Trà Giang đảm nhận đều ở vị trí “đối kháng” với bạn diễn. Vì phần lớn phim của nước ta tập trung vào đề tài chiến tranh. Nhưng, Trà Giang rất ấn tượng với bạn diễn Lâm Tới. Cả hai cùng đóng trong phim “Cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp diễn”. Chị khâm phục Lâm Tới. Ngoài thể hiện chiều sâu nhân vật, sau mỗi câu thoại mà Lâm Tới diễn, người bạn diễn như chị còn cảm nhận được những gì sẽ xảy ra sau lời thoại.
Sang thập niên 1990, điện ảnh nước ta chuyển hẳn sang loại phim thị trường. Hàng trăm phim video, chủ yếu là phim thương mại, giải trí tung hoành. Các ca sĩ, người mẫu, hoa khôi, hoa hậu… thi nhau làm diễn viên. Những vai diễn nghiêm túc cho chị không còn nữa. Nhiều người thấy tiếc. Nhưng, chị cảm thấy mình dừng lại đúng lúc là tốt nhất.
Chuyện đồng tính nam lấy vợ trên màn ảnh rộng: Bi kịch đáng thương hay đáng trách?
Đồng tính nam lấy vợ - một đề tài hết sức nhạy cảm, không chỉ trong điện ảnh mà hầu hết các lĩnh vực khác đều ít thấy nhắc tới, nhưng ít không có nghĩa là không có.
Điện ảnh Việt Nam và trên toàn thế giới chẳng thiếu những tác phẩm khai thác đề tài cuộc sống của đàn ông đồng tính, từ quá trình tìm lại bản thân đến tình yêu đam mỹ cháy bỏng. Thế nhưng chuyện đàn ông đồng tính lấy vợ lại là một chủ đề mà ít bộ phim dám đả động tới. Dĩ nhiên ít không có nghĩa là không có, vẫn còn những tác phẩm xứng danh huyền thoại điện ảnh khi khai thác câu chuyện này.
Từ điện ảnh thế giới...
Đề cập đến đề tài này sớm nhất có lẽ là điện ảnh Hồng Kông với bộ Lam Vũ (Lan Yu) của đạo diễn Quan Cẩm Bằng, ra đời năm 2001. Bộ phim dựa trên tác phẩm văn học mạng nổi tiếng Câu Chuyện Bắc Kinh , kể về mối tình lãng mạn và buồn bã của hai người đàn ông sống vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90.
Trong phim, Lam Vũ (Lưu Diệp) - một sinh viên ngành kiến trúc đang túng thiếu tiền bạc đã đồng ý ngủ với nam doanh nhân thành đạt Trần Hàn Đông (Hồ Quân). Từ việc "bán thân" kiếm tiền, Lam Vũ bắt đầu nảy sinh tình cảm với doanh nhân này nhưng đây cũng là lúc Trần Hàn Đông cố gắng hết sức để tránh dính dáng với tình cảm của Lam Vũ, dồn dập tặng tình nhân những món quà đắt tiền và làm đám cưới với một cô gái khác. Kết thúc phim là khi Lam Vũ chết sau một vụ tai nạn và nhiều năm qua đi, người đàn ông đã có vợ Trần Hàn Đông sớm nhận ra rằng anh ta không thể nào sống thiếu chàng sinh viên năm nào.
Lam Vũ là một tác phẩm điện ảnh nổi tiếng, là bệ phóng cho hai diễn viên Lưu Diệp và Hồ Quân. Trong phim, chuyện Trần Hàn Đông tìm cách khước từ tình cảm của Lam Vũ ít nhiều cũng mang hơi thở thời đại lúc bấy giờ với quan niệm: Đàn ông nhất định phải lấy vợ. Sự day dứt của nhân vật Hàn Đông ở phần cuối bộ phim cũng như những những sự giằng co giữa hai bên là một điểm cộng đáng ghi nhận của bộ phim.
Sau Lam Vũ, Brokeback Moutain là một tác phẩm nhắc nhiều hơn một chút về đề tài đàn ông đồng tính lấy vợ trong mạch truyện phim. Về nội dung, phim kể về chuyện tình chóng vánh nhưng cả đời day dứt của Ennis del Mar (Heath Ledger) và Jack Twist (Jake Gyllenhaal). Họ là những kẻ sống xa gia đình, phải tự chăm sóc bản thân, một ngày nọ tìm thấy nhau, tâm tình và thông cảm với những nỗi khổ, sự vất vả mà cả hai đang phải đương đầu. Tình yêu đã đến với họ vào năm 1963 trong lúc cả hai cùng nhận việc chăn cừu tại Wyoming thế nhưng khi mùa xuân đến, công việc chăn cừu chấm dứt cũng là lúc họ quyết định chia lìa đôi ngả. Sau khi khi chia tay, hai người đều cưới vợ và có những đứa con. Tuy vậy cả Jack và Ennis đều chưa thực sự quên những kỷ niệm của mùa đông năm 1963, họ gặp lại nhưng lại chẳng thể từ bỏ gia đình để chạy theo tiếng gọi của con tim. Và cũng giống như Lam Vũ, phim kết thúc khi một trong hai người phải chết, cả hai gia đình cũng không còn trọn vẹn.
Rõ ràng, trong tác phẩm đình đám chuyển thể từ tiểu thuyết này, câu chuyện về hôn nhân dị giới được tô đậm hơn rất nhiều so với Lam Vũ. Nhưng suy cho cùng những bi kịch của cặp đôi đồng tính nam cũng đến từ sự ngại ngần không dám vứt bỏ tất cả, đạp đổ thành kiến để đến với nhau. Thậm chí ngay cả khi người vợ của Ennis phát hiện ra mối quan hệ của chồng và bạn thân rồi chủ động ly hôn thì cả hai nhân vật nam chính vẫn không thể công khai đến với nhau như họ mong muốn. Một phần là gánh nặng gia đình nhưng trên tất cả đó vẫn là áp lực xã hội vào thời điểm đó vẫn chưa thật sự thừa nhận tình yêu và hôn nhân giữa người đàn ông.
Không bi kịch như hai tác phẩm trên, Call Me By Your Name lại chỉ nhắc đến câu chuyện đàn ông đồng tính lấy vợ ở phần cuối tác phẩm như một lời chia tay của Oliver với mối tình đồng tính nam đẹp, thơ mộng giữa mùa hè lãng mạng nước Ý. Dù vậy, cái kết của chuyện tình đồng tính thời hiện đại vẫn là một trong hai lấy vợ và nghiệt ngã hơn nữa khi Oliver được biết rằng cha mình thời trẻ cũng từng có một mối tình đồng tính như vậy và giờ đây, ông vẫn sống như một người đàn ông bình thường, có vợ và con trai.
Xuyên suốt cả 3 tác phẩm trên, dù mờ nhạt hay đậm nét đi chăng nữa, hôn nhân dị giới vẫn là một điều mà các nhân vật nam phải thực hiện để tròn chức trách, nghĩa vụ với gia đình cũng như giới tính mà họ đang mang. Việc phải từ bỏ tình yêu lớn của đời mình để đến với cuộc hôn nhân hình thức có lẽ là điều sai trái nhất trong cuộc đời họ, nhưng rất tiếc, họ không thể làm khác được
Đến màn ảnh Việt
Với một nền điện ảnh theo đuổi những đề tài khá an toàn như Việt Nam, hầu như không có những bộ phim chiếu rạp chọn khai thác chuyện đàn ông đồng tính lấy vợ. Rõ nét, hay nói chính xác nhất là chỉ có dự án Tao Không Xa Mày khởi chiếu tháng 9/2017. Chuyện phim xoay quanh đôi bạn Tùng và Nam từ thuở nhỏ đến thời học trò thân thiết với nhau như hình với bóng. Không khó để nhận ra tình cảm giữa họ đã vượt mức bạn bè nhưng vì nhiều lý do họ đã phải chia cắt, cho đến khi trưởng thành thành những người đàn ông thực thụ mới tìm lại gặp nhau. Trái ngang, lúc đó thì người đã có vợ, kẻ thì dường như cũng đã có tri kỉ. Tao không xa mày không phải là một dự án thành công nếu xét trên bình diện doanh thu và cả danh tiếng. Điều nhắc nhớ nhiều nhất tới bộ phim đó có lẽ là sự xuất hiện của NSƯT Hữu Châu và cố NSƯT Thanh Hoàng khi thủ vai Tùng và Nam lúc về già.
Ngoài ra, có thể kể đến một tác phẩm khác là Lạc Giới, bộ phim chiếu rạp năm 2014 với sự góp mặt của Mai Thu Huyền, Trung Dũng, Bình An, Vũ Tuấn Việt. Nhắc đến bộ phim này trong bài viết này bởi cuộc tình tay Trung ba (Trung Dũng) - Kim (Mai Thu Huyền) - Hải (Bình An). Trung và Hải yêu nhau nhưng cuối cùng Kim lại là người mang thai con của Trung. Cảnh kết phim, Kim mang thai cùng Hải đi ra biển rắc tro của Trung sau khi Trung tự vẫn để hiến tim cho Hải.
Lạc giới vào thời điểm công chiếu cũng gây nên những tò mò nhất định khi được định nghĩa là phim Việt đầu tiên về đề tài song/lưỡng tính (nhân vật Trung) cũng như được mang đi dự một số liên hoan phim nước ngoài và đoạt giải Cánh Diều Bạc 2014.
Chờ đợi gì ở Chồng Người Ta - phim "bê đê lấy vợ" sắp ra rạp?
Sau những Lạc Giới, Tao Không Xa Mày thì Chồng Người Ta có lẽ sẽ tác phẩm Việt đầu tiên xoáy sâu vào vấn đề khi đàn ông đồng tính lấy vợ. Không giống những tác phẩm còn lại, Chồng Người Ta còn đả động đến vấn đề ngoại tình, khi mà con người không thể cố gồng để sống trong chiếc vỏ bọc của một "người-bình-thường" và rồi để bản thân đi quá giới hạn, làm điều tội lỗi. Theo những gì mà ekip giới thiệu thông qua poster, trailer đầu tiên thì trong phim, một người chồng, người cha mẫu mực sau bao năm sống trong sự dối trá đã quyết định tìm lại bản thân mình bằng cách ngoại tình với một người đàn ông khác. Dĩ nhiên đồng tính không hề sai, đồng tính lấy vợ lại là một khái niệm nhạy cảm mà người ta không thể phân định là sai hay đúng nhưng ngoại tình lại là điều không thể cảm thông được, kể cả việc người đàn đông đó chỉ đang muốn tìm lại bản ngã, sống thật với mình.
Với Chồng Người Ta (dự kiến khởi chiếu từ 21/8) hơn cả câu chuyện ngoại tình hay tình yêu đam mỹ, khán giả có quyền kì vọng về một thước phim chân thực ở màn ảnh Việt về vấn đề đàn ông đồng tính lấy vợ. Đó là nỗi đau dai dẳng của một kẻ sống trái với con người thật, của người vợ, người con phải chứng kiến cảnh tượng nghiệt ngã: chồng/cha mình ngủ với một gã đàn ông khác. Với người vợ và cậu con trai, đó là cảm giác của sự phản bội, thậm chí là cả ghê sợ, họ đáng thương và là nạn nhân của một mối quan hệ ràng buộc nhau bởi tờ hôn thú và những thành kiến trong xã hội. Còn người đàn ông ngoại tình kia, anh ta sai nhưng sai nhiều nhất là với chính bản thân mình.
Teaser Chồng Người Ta
Chồng Người Ta dự kiến khởi chiếu trên toàn quốc từ 21/8.
NSƯT Minh Vượng bần thần trước sự ra đi của NSƯT Hoàng Yến: "Đồng nghiệp, khán giả và em sẽ đến chia tay chị" NSƯT Minh Vượng đã chia sẻ rất nhiều kỷ niệm đẹp cô đã có cùng NSƯT Hoàng Yến khi cả hai làm việc chung hơn 20 năm trước. Minh Vượng gọi diễn viên Hoàng Yến là "đại tỷ". Giống như nhiều nghệ sĩ và khán giả, NSƯT Minh Vượng vô cùng đau buồn trước tin NSƯT Hoàng Yến qua đời. Như nghệ sĩ...