Nơi chết rồi vẫn phải… cưới
Trong đời, một cặp vợ chồng người Khùa nhất thiết phải tổ chức cưới 3 lần. Thế nên có nhiều cặp vì lý do này khác sống với nhau trọn đời, thậm chí đã chết vẫn chưa cưới xong.
Đứng trên đường 12A nhìn xuống, thượng nguồn sông Gianh như một con rắn trườn mình hun hút dưới khe sâu. Dọc theo dòng sông là bản làng với những mái nhà sàn lúp xúp tựa lưng vào núi, quay mặt ra sông. Đó là địa bàn thuộc hai xã Dân Hoá và Trọng Hoá (Minh Hoá, Quảng Bình), quê hương của người Khùa, một trong những tộc người ít nhất Việt Nam.
Bản làng người Khùa. Ảnh: Nông nghiệp Việt Nam.
Ngồi bên bếp lửa trong căn nhà sàn ở bản La Trọng, ông Hồ Linh, người được coi là “bộ sách sống” của người Khùa, cho biết cuộc đời mỗi cặp vợ chồng người Khùa nhất thiết phải tổ chức cưới 3 lần thì mới được coi là thành vợ, thành chồng. Con trai, con gái người Khùa lớn lên, tìm hiểu nhau, ưng cái bụng rồi thì người con trai chủ động đi đến nhà con gái để “cướp vợ” vào lúc 3-4h sáng. Cướp được vợ, ngày hôm sau người con trai làm một cái lễ gồm 4 con gà, một mâm cơm, một hũ rượu cần tới nhà bố mẹ vợ “tạ tội”, coi như lễ cưới đầu.
Đôi uyên ương về ở với nhau rồi khi nào có điều kiện thì tổ chức lễ cưới thứ hai. Cưới lần hai, lễ vật nhất thiết phải có một con lợn, một con bò để mổ thịt mời cả bản cùng chung vui. Và lễ cưới thứ ba mới là quan trọng nhất trong đời. Lễ vật lúc đó phải gấp đôi lễ vật của lễ cưới lần 2, tức là phải 2 con lợn, 2 con bò, hàng chục hũ rượu cần. Người Khùa mới chính thức thành vợ chồng sau lễ cưới này.
Phần lớn dân bản người Khùa còn nghèo, hàng năm Nhà nước vẫn phải phát gạo cứu đói. Khó khăn thế nhưng cuộc đời của một nam giới nhất nhất phải tổ chức cưới 3 lần dù nhà đó giàu hay nghèo. Ai có đủ lễ vật để mời bà con thì tổ chức sớm. Nhà nào chưa có điều kiện, đợi cho đến khi đủ trâu, bò, lợn sẽ tổ chức tiếp. Không may ai qua đời mà chưa cưới được lần 3 thì con cháu sẽ làm thay.
Nhà Hồ Thon nằm giữa bản Hà Vi. Nhà Thon nghèo, bữa cơm hàng ngày chưa được no, con cái chưa có đủ quần áo để mặc. Vậy mà Thon vẫn còn phải lo một chuyện lớn là cưới lần thứ 3 cho bố. Ông Hồ Khun, bố của Thon, đã chết cách đây mấy năm. Sau bao năm làm lụng vất vả, ông Khun mới lo cưới cho mình đến lần 2. Tuổi già, sau trận ốm nặng, ông đã qua đời. Chiểu theo lệ của bản, Hồ Thon phải đứng ra tổ chức cưới lần thứ 3 cho bố.
Bố mất được 3 năm rồi, giờ Hồ Thon đã nuôi được con bò, con trâu to. Đây là tài sản lớn nhất của nhà Thon. Nếu bán đi Thon có thể mua được nhiều gạo, quần áo ấm cho các con. Nhưng để làm tròn trách nhiệm với bố, Thon quyết định mổ trâu, mổ bò mời bà con dân bản đến ăn cưới lần thứ 3 của bố. Cả bản hôm đó được ăn uống linh đình, chỉ có Thon là buồn so. Thon bảo, đời bố vất vả nhiều, bố chẳng sống được đến ngày hôm nay mà hưởng lễ cưới lần thứ 3.
Video đang HOT
Vợ chồng người Khùa phải tổ chức đám cưới 3 lần. Ảnh: Nông nghiệp Việt Nam.
Có lẽ do cưới nhau cực khổ nên người Khùa không bao giờ tính đến chuyện bỏ nhau, dù có nhiều lúc cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt. Theo ông Hồ Linh, người Khùa là một tộc người thông minh, hồn nhiên và hiếu khách. Đàn ông người Khùa giỏi làm rẫy, đan lát, đàn bà thì giỏi câu cá, trỉa ngô…
Trong đời sống hàng ngày, người Khùa thường gặp gỡ nhau ở trên rẫy, dưới suối nên nhiều khi có một số người cảm tình nhau mà quan hệ ngoài chồng ngoài vợ. Thấy vợ mình thay đổi bất thường, Hồ Ton ở bản La Trọng (xã Dân Hóa) đã theo dõi và biết vợ có quan hệ tình cảm với Hồ Kha ở bản Hà Vi. Biết chính xác nơi Hồ Kha và vợ mình thường xuyên hẹn hò nhưng Hồ Ton không đến “bắt tại trận”. Ngay cả việc nói nặng lời với vợ một câu cũng không.
Hồ Ton lặng lẽ trở về nhà mua con gà luộc sẵn và chai rượu, sau đó mời Hồ Kha đến nhà chơi, uống rượu. Hồ Kha đến, sau một tuần rượu, Hồ Ton mới bắt đầu nói: “Tao biết chuyện của mày với vợ tao rồi. Từ nay mày đừng làm rứa nữa mà tao buồn cái bụng”. Ba mặt một lời, Hồ Kha không chối cãi mà xin lỗi Hồ Ton và hứa sẽ không làm việc đó nữa.
Người Khùa đã hứa là làm, và từ đó Hồ Kha không bao giờ “léng phéng” với vợ Hồ Ton nữa. Cuộc sống của vợ chồng Hồ Ton trở lại yên ấm. Còn Hồ Ton và Hồ Kha qua một thời gian đã hiểu nhau hơn, họ làm lễ buộc chỉ cổ tay cho nhau. Người Khùa đã buộc chỉ cổ tay với nhau thì đã xem nhau như anh em.
Khi nghe câu chuyện “đánh ghen” của Hồ Ton, ông Hồ Tuân, Chủ tịch UBND xã Dân Hoá xác nhận: “Đó là cách giải quyết của người Khùa. Tôi làm chủ tịch xã 2 nhiệm kỳ rồi, chuyện như vậy tôi đã gặp nhưng chưa bao giờ phải giải quyết ly hôn cho cặp vợ chồng nào cả”.
Theo Nông nghiệp Việt Nam
Xóm 'người rừng'
Dưới chân dãy Giăng Màn quanh năm mây mù bao phủ, mấy hộ dân người Mày ở xã Trọng Hóa (Minh Hóa, Quảng Bình) sống theo phương thức săn bắn, hái lượm. Đêm họ không đèn, ốm không thuốc, con cái lớn lên không học hành.
Từ trạm biên phòng bản Dộ, vượt qua mấy con suối mới tới được xóm "người rừng". Đang là mùa mưa, con suối Kà Rong dữ dằn hơn. Dòng nước đỏ ngàu, nước chảy băng băng cuốn phăng mọi vật cản trên dòng chảy. Vất vả lắm các chiến sĩ biên phòng mới giúp nhóm khách lạ vượt qua dòng nước dữ.
Xóm "người rừng" có 5 nóc nhà lợp lá cọ, có nhà xiêu vẹo sắp đổ. Xóm gồm 5 hộ với 40 nhân khẩu. Thấy đoàn người đi tới, mấy đứa trẻ ở trần, da đen như đồng hun đang tắm mưa chạy toán loạn.
Nhà của chị Hồ Phăng được làm bằng cây rừng kết lại. Trong nhà treo lủng lẳng cung, tên, nỏ, và cả những cây củi được coi là vật thiêng. Trên vách nhà còn có rất nhiều bộ da thú, trong đó có một bộ da báo rất to. Vừa bập bập tẩu thuốc trên môi, chị Phăng ra hiệu mời khách ngồi chơi. Thấy khách định hạ cái cung đã mòn vẹt xuống xem, chị Phăng hốt hoảng hua hua ra hiệu không được sờ.
Cả xóm người rừng chỉ có 5 hộ dân. Ảnh: Nông nghiệp Việt Nam.
Trung úy Hà Anh Đức, Đội trưởng Đội vận động quần chúng của Trạm biên phòng bản Dọ giải thích, ở đây họ kiêng kỵ nhiều thứ lắm. Theo tục của người Mày ở xã Trọng Hóa, người lạ không được đụng vào từ vật dụng cá nhân cho đến chỗ ngồi trong nhà.
Các hộ trong xóm "người rừng" sống quây quần bên dòng suối Kà Rong. Ngày mưa chỉ có phụ nữ ở nhà, đàn ông vào rừng săn bắn. Họ trồng lúa nương nhưng chỉ lơ thơ vài chòm, hàng ngày vào rừng tìm củ, quả về ăn. Dân trong xóm sống biệt lập, ít khi trao đổi hàng hóa với các bản ngoài trung tâm xã.
Chị Phăng có 6 người con. Đứa con trai cả là Hồ Đun đã lấy vợ. Hai đứa con gái lớn năm nay đã gần 20 tuổi mà chưa có ai hỏi. Chị Phăng đang lo chúng không lấy được chồng vì ở xóm này không có đứa trai bản nào cùng lứa với chúng.
Vợ chồng Đun đã ra ở riêng. Sang nhà Đun chỉ có mình vợ Đun là Hồ Thị Khâm ở nhà. Thấy có đông người vào nhà, Khâm tỏ ra ngại ngùng. Khâm ngồi sưởi ấm một mình bên bếp lửa, miệng cũng ngậm một tẩu thuốc. Ở cái xóm "người rừng" này ai cũng hút thuốc. Họ cho rằng lửa sẽ mang lại nhiều may mắn nên chỉ trừ lúc ngủ và ăn mới không hút thuốc.
Khâm với Đun lấy nhau được 4 năm. Khâm đã 3 lần đẻ con nhưng chúng đều mất cả. Cũng như mọi người dân ở đây, Khâm sinh con tại nhà chứ không ra trạm y tế xã. Trong nhà Khâm chẳng có vật gì gợi nên sự no đủ. Ngoài số gạo cứu đói của Nhà nước do các chiến sĩ biên phòng mang đến, cuộc sống của vợ chồng trông cả vào rừng.
Trong căn nhà lá đơn sơ của ông Hồ Sun, người cao tuổi nhất xóm, mọi đồ dùng sinh hoạt đều do tổ tiên để lại. Trẻ em ở đây lớn lên cũng sống cuộc sống như bố mẹ chúng vậy. Khi đôi chân biết leo núi, cái tay biết căng dây nỏ cũng là lúc chúng được bố dạy cho cách tìm dấu vết của các con thú. Trong những chuyến đi rừng, chúng học cách phân biệt cây nào ăn được, cây nào có độc cần tránh. Đến tuổi trưởng thành, chúng đã thuộc nằm lòng cách sinh tồn giữa nơi hoang dã. Cuộc sống của nam giới nơi đây ở rừng nhiều hơn ở nhà.
Hỏi già Sun về Chứng minh thư nhân dân và hộ khẩu, già lắc đầu, cái đó chẳng nghe thấy bao giờ. Tổ tiên chỉ truyền lại cách săn thú, nhặt quả rừng, chứ đã bao giờ nói đến những thứ đó. Những đứa trẻ nơi đây lớn lên chẳng cần quan tâm tới chuyện học hành. Bởi lẽ, cuộc sống nay đây mai đó của họ cốt sao được ăn no, chứ có đứa nào biết mặt chữ là gì. Hơn nữa, từ nơi đây chúng ra đến trường học cũng mất thời gian khá dài. Cứ như thế hết năm này qua năm khác họ sống êm đềm cùng núi rừng, không cần quan tâm đến thế giới bên ngoài.
Ngoài 5 căn nhà lá, xóm còn có 5 cái lều nhỏ được dựng quanh đó. Đó là căn nhà ở của phụ nữ khi "đến tháng" hoặc sinh nở. Phụ nữ nơi đây đến chu kỳ kinh nguyệt phải mang xoong, nồi, quần áo ra đó ở, chứ không được ở nhà chính. Họ phải sống một mình khoảng 5 ngày và không được tiếp xúc với người trong nhà. Ngay cả chồng cũng không được bén đến đó.
Hỏi ông Hồ Sun vì sao phụ nữ thường phải ở một mình khi đến ngày đó, ông Sun lại đưa tẩu thuốc lên miệng bập bập mấy hơi rồi mới chậm rãi bảo: "Bao năm nay người dân chỉ sống trong rừng sâu núi thẳm. Các cụ miềng sống như thế, giờ miềng cũng phải theo chứ. Không bỏ được đâu".
Trẻ em ở xóm "người rừng". Ảnh: Nông nghiệp Việt Nam.
Khắt khe nhất là luật tục về phụ nữ sinh đẻ. Phụ nữ trong thời gian sinh con được gia đình làm cho một cái chòi để ở riêng. Đến khi nào con biết cười, vợ chồng mới làm lễ đuổi cái dơ bẩn, bệnh tật đi cho đứa con được sạch sẽ. Sau đó, gia đình mới đón cả 2 mẹ con vào nhà. Người dân cho biết khi làm lễ tục phải chu đáo, nếu không khi đưa con về nhà sẽ bị "con ma rừng" theo đuổi.
Lễ tục diễn ra với hình thức đào một cái hố sâu, rồi trải lá dong rừng xuống, lấy mấy viên đá nhặt ở khe suối về nung đỏ rồi đặt lên trên lá dong. Sau đó, cạo lấy 3 nắm rễ cây "lạng hang" bỏ vào, vợ chồng cầm 2 nhánh cây dầu thơm ngồi ở trên hố và dội nước vào. Khi khói bay lên thì giơ đứa con lên cho cái dơ bẩn, bệnh tật bay theo gió, theo mây. Cái mùi thơm của khói bay lên từ hố sẽ đuổi "con ma" về với rừng.
Ở đây, ốm đau, người dân chẳng dùng thuốc, ngay cả việc dùng lá cây rừng cũng không. Họ ốm rồi đợi bệnh tự khỏi. Bệnh nặng quá không qua được thì chết. Họ coi đó là sự chọn lọc tự nhiên.
Đồn biên phòng Ra Mai đang cố gắng vận động những cư dân "người rừng" này ra ngoài bản Dộ định cư. Tuy nhiên, sau nhiều năm các chiến sĩ biên phòng đi lại để dân vận, người dân vẫn cương quyết ở đây. Họ bảo, ở rừng thích hơn. Đến nay mới có một cháu trong xóm được đón ra ngoài bản Dộ học chữ.
Trọng Hóa là một trong những xã nghèo nhất của tỉnh Quảng Bình. Xã có 18 bản, là nơi sinh sống của các tộc người Khùa, Mày, Mã Liềng thuộc nhóm dân tộc Bru - Vân Kiều.
Theo Nông nghiệp Việt Nam
Chuyện ly kỳ về xóm 'người rừng' Dưới chân dãy Giăng Màn quanh năm mây mù bao phủ, mấy hộ dân người Mày ở xã Trọng Hóa (Minh Hóa, Quảng Bình) sống theo phương thức săn bắn, hái lượm. Đêm họ không đèn, ốm không thuốc, con cái lớn lên không học hành. Từ trạm biên phòng bản Dộ, vượt qua mấy con suối mới tới được xóm "người rừng"....