Nơi các chỉ tiêu giáo dục đều thấp nhất cả nước
Chi ngân sách cho giáo dục thấp nhất, giáo viên thiếu nhiều nhất, số phòng học kiên cố ít nhất, tỷ lệ học 2 buổi/ngày thấp nhất, tỷ lệ huy động trẻ đến trường ‘khiêm tốn’ nhất… là những chỉ tiêu ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Học sinh ở Cần Thơ đi học bằng xuồng – MINH THU
Thiếu giáo viên, thiếu phòng học
Ông Phạm Hùng Anh, Cục trưởng Cục Cơ sở vật chất trường học, Bộ GD-ĐT, cho biết: các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện có 2.029 trường mầm non, 3.101 trường tiểu học, 1.407 trường THCS, 377 trường THPT.
Vùng ĐBSCL có 231.147 cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên (GV), nhân viên, trong đó số cán bộ quản lý giáo dục là 15.435, chiếm 15,61% so với cả nước; GV là 182.439, chiếm 16,98%; nhân viên 33.273, chiếm 14,95%. Theo định mức năm học 2018 – 2019, ĐBSCL còn thiếu 11.637 GV mầm non, 2.583 GV tiểu học, 2.157 GV THCS, 401 giáo viên THPT…
ĐBSCL có tỷ lệ phòng học/lớp học, tỷ lệ phòng học kiên cố hóa bình quân thấp nhất cả nước.
Cũng theo ông Hùng Anh, để ĐBSCL có điều kiện về phòng học và thiết bị dạy học ngang bằng cả nước, cần đầu tư bổ sung hàng chục ngàn phòng học. Trong đó mầm non là 2.400 phòng, cải tạo, nâng cấp 2.100 phòng. Ở bậc tiểu học, cần đầu tư mới khoảng 900 phòng, cải tạo, nâng cấp khoảng 4.300 phòng. Bậc THCS cần đầu tư cải tạo, nâng cấp khoảng 1.857 phòng. Bậc THPT cần khoảng 223 phòng học. Đó là chưa nói tới số phòng học bộ môn cần đầu tư mới và đầu tư trang thiết bị dạy học.
Thấp hơn mức trung bình của cả nước
Tỷ lệ huy động trẻ mầm non ra lớp thấp nhất so với các vùng và thấp hơn tỷ lệ trung bình của cả nước. Tỷ lệ trẻ nhà trẻ và trẻ mẫu giáo ăn bán trú chỉ 68,4%, thấp hơn trung bình toàn quốc 22,9% (toàn quốc là 91,3%).
Số học sinh tiểu học được học 2 buổi/ngày cũng thấp nhất so với các vùng và thấp hơn trung bình của toàn quốc khi chỉ đạt 63,45%, trong khi cả nước con số này là hơn 80%. Chưa có tỉnh nào trong khu vực đạt chuẩn phổ cập tiểu học đúng độ tuổi cấp độ 3.
Video đang HOT
“Không thể giải quyết những vấn đề của giáo dục bằng những chủ trương chung chung mà cần tính đến đặc thù của từng địa phương, để mỗi địa phương chủ động vươn lên chứ không phải nhìn nhau để phát triển”
Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phùng Xuân Nhạ
Theo Bộ GD-ĐT, số liệu tổng hợp của Kho bạc Nhà nước trong giai đoạn 2011 – 2016, chi ngân sách địa phương (tính cả phần ngân sách T.Ư hỗ trợ các địa phương nhưng được quyết toán tại địa phương) cho giáo dục mầm non, phổ thông của cả nước khoảng hơn 155.000 tỉ đồng, trong đó tổng chi ngân sách địa phương trung bình/năm (2011 – 2016) cho giáo dục mầm non, phổ thông của các tỉnh ĐBSCL khoảng 24.603,1 tỉ đồng. Như vậy, tổng chi ngân sách địa phương cho giáo dục mầm non, phổ thông của các tỉnh ĐBSCL chiếm 15,9% tổng chi của cả nước, trong khi đó tổng số học sinh của ĐBSCL chiếm 17,5% tổng số học sinh cả nước.
Mức chi ngân sách địa phương trung bình cho một học sinh mầm non, phổ thông của ĐBSCL thấp hơn bình quân chung của cả nước là 11,9% (trong đó thấp hơn bình quân chung của cả nước về chi đầu tư là 8,6%, chi thường xuyên 12,5%). Phân bổ chi ngân sách địa phương cho các cấp học cũng chưa hợp lý.
Không chỉ nguồn ngân sách địa phương chi cho giáo dục thấp, nguồn vốn T.Ư hỗ trợ các địa phương khu vực ĐBSCL thông qua các chương trình, đề án nói chung, cũng chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số vốn T.Ư hỗ trợ các địa phương – thấp nhất so với các vùng trong cả nước do chính sách hỗ trợ tập trung cho các địa bàn đặc biệt khó khăn, vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số mà các tỉnh ĐBSCL có ít đối tượng thụ hưởng so với các vùng khó khăn khác.
Giải pháp cần tính đến đặc thù của từng địa phương
Đại diện 13 địa phương khu vực ĐBSCL đã đề xuất với Bộ GD-ĐT xem xét có cơ chế chính sách đặc thù cho giáo dục ĐBSCL giống như Tây Bắc, Tây nguyên và Tây Nam bộ, bởi đây là vùng sông nước điều kiện đi lại khó khăn, tác động rất lớn đến chất lượng giáo dục.
Đại diện các địa phương cũng chỉ ra những bất hợp lý về chủ trương tinh giản 10% biên chế đối với viên chức giáo dục. Hiện nay, theo thống kê các tỉnh ĐBSCL đang thiếu gần 17.000 GV mầm non, phổ thông, trong đó GV mầm non thiếu khoảng 11.600 người. Nếu thực hiện tinh giản một cách cơ học sẽ dẫn tới không đảm bảo số lượng và chất lượng GV các bậc học. Làm sao phải đảm bảo nơi nào có học trò, nơi đó có GV.
Đối với việc rà soát, sắp xếp các điểm trường khu vực ĐBSCL, đại diện tỉnh Long An đề xuất, khi sắp xếp các trường thì cần gắn liền với phát triển nông thôn mới. Vì đặc thù vùng ĐBCSL là sông ngòi chằng chịt, nếu hạ tầng giao thông phát triển sẽ hạn chế được các điểm trường lẻ.
Theo tinh thần Nghị quyết 19 và Nghị quyết 37 của Chính phủ, để đạt được mục tiêu đặt ra đến năm 2025 giáo dục của các tỉnh ĐBSCL tối thiểu phát triển ngang bằng với bình quân chung của cả nước, các tỉnh trong khu vực cần khẩn trương rà soát, quy hoạch lại mạng lưới các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông.
Trong một hội nghị với ngành GD-ĐT khu vực ĐBSCL tổ chức tại Cần Thơ, ông Phùng Xuân Nhạ, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT, cho biết hiện nay Bộ đang xây dựng bộ chỉ số đánh giá giáo dục các địa phương, qua đó nhìn nhận chất lượng giáo dục của từng địa phương, từng vùng, để biết đâu là vùng trũng và trách nhiệm đến đâu của từng bộ, ngành, địa phương. “Không thể giải quyết những vấn đề của giáo dục bằng những chủ trương chung chung mà cần tính đến đặc thù của từng địa phương, để mỗi địa phương chủ động vươn lên chứ không phải nhìn nhau để phát triển”, ông Nhạ khẳng định.
Ông Nhạ cũng khẳng định nếu chương trình kiên cố hóa trường lớp học giai đoạn 2021 – 2025 được thực hiện cần cho phép các tỉnh ĐBSCL tham gia với các tiêu chí, điều kiện như các vùng Tây Bắc, Tây nguyên và Tây Nam bộ, nhằm giúp các tỉnh trong vùng xóa bỏ các phòng học tạm, tranh tre nứa lá, từng bước tháo gỡ khó khăn về cơ sở vật chất trường học cho toàn vùng.
Số học sinh bỏ học chiếm hơn 55% của cả nước
Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, số học sinh tiểu học của riêng vùng ĐBSCL bỏ học chiếm tới hơn 55% của cả nước. Lý do chủ yếu xuất phát từ những nguyên nhân như: Đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn, nhiều học sinh bỏ học để mưu sinh hoặc do dân cư sinh sống theo tập quán, thời vụ không ổn định, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng sông nước, vùng dân tộc ít người, dẫn đến khi di chuyển cùng gia đình, các em rời khỏi nhà trường và không quay lại trường.
Theo Thanh niên
Chờ hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục Đại học
Dự thảo nghị định hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục Đại học (ĐH) sửa đổi (Luật số 34) đã được Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam yêu cầu bổ sung và điều chỉnh trước khi trình Thủ tướng.
Đây là vấn đề được các trường rất chờ đợi vì Luật số 34 đã có hiệu lực từ ngày 1-7, nhưng tất cả hoạt động vẫn phải chờ nghị định hướng dẫn thi hành luật.
Sinh viên Trường ĐH Quốc tế (ĐH Quốc gia TPHCM) thực hành tại phòng thí nghiệm
Nhiều nội dung mới
Bản Dự thảo nghị định hiện có 20 điều, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các khoản 3, 4, 10, 12, 13, 15, 17, 23, 24, 28, 34, Điều 1 của Luật số 34. Điểm nổi bật của dự thảo chính là hướng dẫn cụ thể nhiều vấn đề mà luật quy định, đặc biệt là nội dung tự chủ đại học.
Về vấn đề đang thu hút sự quan tâm vừa qua là đặt tên, đổi tên trường... được quy định rõ theo quy định của Việt Nam và kèm theo tên quốc tế. Điều 4, chuyển trường ĐH thành ĐH và thành lập trường thuộc trường ĐH quy định điều kiện như sau: trường ĐH đã được công nhận đạt chuẩn chất lượng bởi tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục hợp pháp; có ít nhất 3 trường thuộc trường ĐH được thành lập; có ít nhất 10 ngành đào tạo đến trình độ tiến sĩ; có quy mô đào tạo chính quy trên 15.000 người; có ý kiến chấp thuận của cơ quan quản lý trực tiếp đối với trường ĐH công lập; có sự đồng thuận của các nhà đầu tư đại diện ít nhất 75% tổng số vốn góp đối với trường ĐH tư thục, trường ĐH tư thục hoạt động không vì lợi nhuận.
Thành lập trường là đơn vị đào tạo thuộc trường ĐH theo khoản 2 Điều 1 của Luật số 34 được quy định như sau: điều kiện thành lập phải có ít nhất 5 ngành thuộc cùng một lĩnh vực đào tạo từ trình độ ĐH trở lên (trong đó có ít nhất 3 ngành đào tạo trình độ thạc sĩ, ít nhất 1 ngành đào tạo đến trình độ tiến sĩ); trường hợp thành lập trường trong trường ĐH đã xác định sứ mạng là trường ĐH ứng dụng thì không cần điều kiện đào tạo đến trình độ thạc sĩ, tiến sĩ; có quy định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường thuộc trường ĐH; có quy mô đào tạo chính quy từ 2.000 người trở lên, trường hợp thành lập trường đào tạo các ngành đặc thù, có quy mô đào tạo chính quy nhỏ hơn 2.000 phải có sự đồng ý của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT căn cứ vào điều kiện thực tế. Tên giao dịch quốc tế bằng tiếng Anh của trường sử dụng thuật ngữ "School" cùng với tên lĩnh vực đào tạo hoặc tên riêng khác, bảo đảm không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của cơ sở giáo dục ĐH đã thành lập hoặc đăng ký.
Để phát huy tốt tính tự chủ, ban soạn thảo dành từ Điều 7 đến Điều 9 để quy định quy trình, thủ tục, điều kiện... của hội đồng trường, hội đồng ĐH. Trong đó, chủ tịch hội đồng trường được hưởng phụ cấp chức vụ cao nhất trong danh mục phụ cấp chức vụ của trường ĐH.
Về quy định công nhận trường ĐH định hướng nghiên cứu phải đáp ứng các tiêu chí như có tỷ lệ ngành đang đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ đạt từ 50% trở lên so với tổng số ngành đang đào tạo cấp bằng; trong 3 năm gần nhất, tỷ trọng nguồn thu trung bình từ các hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, nghiên cứu, chuyển giao không thấp hơn 15% tổng thu của cơ sở giáo dục ĐH. Trong 3 năm gần nhất, trường ĐH công bố trung bình mỗi năm từ 100 bài báo trở lên trên các tạp chí khoa học có uy tín trên thế giới và đạt tỷ lệ trung bình mỗi năm từ 0,3 bài trở lên đối với mỗi giảng viên cơ hữu...
Cần ban hành sớm
Hiện nay, các cơ sở giáo dục ĐH đang trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan vì luật cũ đã hết hiệu lực thi hành, còn luật mới có hiệu lực nhưng không thể thực thi vì phải chờ nghị định hướng dẫn thi hành.
GS-TS Nguyễn Thanh Phương, Chủ tịch Hội đồng trường Trường ĐH Cần Thơ, nói: "Luật số 34 đã có hiệu lực nhưng hiện các trường băn khoăn vì không biết thực hiện như thế nào. Ví dụ Luật số 34 cho phép các trường đầu tư, khai thác..., nhưng hiện nay làm có được không vì vướng Luật Đầu tư công, Luật Quản lý tài sản công...".
Hiệu trưởng một trường ĐH bày tỏ: "Chúng tôi trông chờ nghị định hướng dẫn thi hành Luật số 34 như "nắng hạn chờ mưa". Và điều chúng tôi mong muốn nghị định ban hành thật sự là cơ sở pháp lý tốt để các trường phát huy tính tự chủ, bứt phá mạnh hơn".
Tại cuộc họp ngày 15-10, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã yêu cầu ban soạn thảo Dự thảo nghị định hướng dẫn thi hành Luật số 34 tiếp thu và chỉnh lý nhiều nội dung rất quan trọng như: Về các vấn đề quy định liên quan đến đào tạo y tế, yêu cầu ban soạn thảo thống nhất với Bộ Y tế để quy định; tiếp thu và chỉnh lý những điểm sau: tên tiếng Anh của các trường quy định theo hướng đảm bảo thông lệ quốc tế; vấn đề chuyển trường ĐH thành ĐH cần rà soát, chỉnh lý lại các quy định về thành lập trường, trong trường theo hướng cân nhắc không quy định các trường này phải đào tạo đến trình độ thạc sĩ, tiến sĩ.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cũng yêu cầu tiếp thu việc bỏ quy định về xin ý kiến cơ quan chủ quản đối với việc thành lập trường thuộc trường, chỉnh lý quy định về phụ cấp trách nhiệm của hội đồng trường... Về vấn đề tự chủ, Bộ GD-ĐT phải rà soát lại, quy định về tự chủ chuyên môn, không siết các quy định tự chủ về chuyên môn, học thuật; chỉnh lý quy định về tự chủ tài chính (nguồn thu và chi); trong đó thay đổi cách cấp ngân sách, đảm bảo không mâu thuẫn với Nghị định số 16 sửa đổi; chỉnh lý dự thảo theo hướng cho phép các trường ĐH được tự chủ bộ máy, nhân sự với điều kiện không làm tăng quỹ lương từ nguồn ngân sách. Đặc biệt, Bộ GD-ĐT xây dựng quy trình hướng dẫn bổ nhiệm hiệu trưởng của các trường thuộc bộ để làm mẫu cho các bộ ngành khác thực hiện.
THANH HÙNG
Theo SGGP
Sách Công nghệ giáo dục bị loại: Đừng để học sinh biết cái sàn mà không biết cái trần Nhà giáo Nguyễn Trung Chính - người từng trực tiếp triển khai Tiếng Việt Công nghệ giáo dục trong gần 30 năm, vừa gửi thư đến Bộ trưởng Bộ GD-ĐT bày tỏ bức xúc vì kết quả thẩm định loại sách Công nghệ giáo dục. Học sinh Công nghệ giáo dục trong một buổi thực hành - Nguồn: Công nghệ giáo dục Trong...