Nỗi buồn xóm… không chồng nơi biên giới
Rời quê theo tiếng gọi khai hoang mở đất, mấy mươi năm sau nhiều người đã quá lứa lỡ thì.
Ngôi nhà mái tôn che mưa nắng của chị Dựng.
Các chị sáp lại, dựa vào nhau để sống và hình thành nên một xóm có cái tên nghèn nghẹn, ngùi ngùi… xóm không chồng trên vùng biên giới tỉnh Gia Lai.
Tuổi xuân bỏ lại nông trường
Những ngày cuối năm, chúng tôi về thôn 3, xã Ia Krai (huyện biên giới Ia Grai, tỉnh Gia Lai) để thăm “xóm không chồng”. Mở đầu câu chuyện, ông Nguyễn Xuân Bốn – Bí thư chi bộ 11 của thôn 3 thận trọng: Chúng tôi ở đây ai cũng hiểu nhưng không muốn lời ra tiếng vào khiến chị em tủi thân, nên không gọi đấy là xóm, mà gọi là cụm dân cư ở tổ 5!
Ông Bốn kể: Đầu những năm 1980, một số đơn vị quân đội trên địa bàn Tây Nguyên như các sư đoàn 331, 359… chuyển thành đơn vị kinh tế đa mục tiêu, lập nên các nông trường cà phê. Sau đó, tuyển hàng nghìn thanh niên từ Hải Dương, Bình-Trị-Thiên (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế bây giờ) làm công nhân, trong đó có nhiều đội sản xuất toàn nữ độc thân. Hồi đó, ông Bốn là Chính trị viên Đại đội thuộc Trung đoàn 705, cũng tham gia khai hoang vỡ đất. Đến nay, nhiều thành viên của “đội độc thân” ngày ấy vẫn chưa chồng.
Vào cái ngõ sâu hun hút ở tổ dân cư 5, “xóm không chồng” hiện ra với những ngôi nhà nhỏ ọp ẹp nằm san sát, vài nhà còn mới màu vôi. Trong căn nhà “ mái ấm tình thương” của chị Bóng (SN 1969), các bà quây quần bên nhau, kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về thời thanh xuân trên nông trường. Đôi tay, gương mặt chị nào cũng hiện lên nét chai sạn, hốc hác, dãi dầu sương gió.
“Lúc đi, chúng tôi chỉ mới tuổi đôi mươi nên ai cũng háo hức, lao đầu vào việc. Vào đây rừng thiêng nước độc, hoang vu lắm, chỉ rừng với rừng, muỗi vắt dày đặc. Có đợt, tôi bị sốt rét rừng vàng da, rụng tóc. Mặc cuộc sống khó khăn trăm bề, ăn uống toàn rau dại, nhưng chị em đều đồng lòng vượt qua để đạt cho nhiều thành tích !”, chị Thảnh kể.
Vượt mọi gian khổ, các chị đã biến rừng rậm thành những nông trường bạt ngàn cà phê xanh tốt. Thời gian thấm thoát qua nhanh, nhiều chị mới giật mình nhận ra trên mỗi nụ cười, khóe mắt mình đã hằn đầy “dấu chân chim” mà vẫn chưa một lần biết đến chữ “yêu”, biết hơi ấm của đàn ông thế nào. Đêm về, từng mái tóc dài chụm vào nhau thút thít, tâm sự cho vơi bớt tủi hờn. Đội độc thân thưa dần, nhiều chị rồi cũng cố gắng tìm ra bến đỗ. Số còn lại, giấc mơ về một gia đình hạnh phúc ngày càng xa xăm!
Con đường về quê như mờ lối. Không ai thân thích, các chị lại tìm đến nhau vừa để tìm nơi nương tựa đồng cảnh ngộ, vừa tìm nguồn cảm thông nỗi hẩm hiu. Mỗi năm “cái tuổi cứ đuổi cái xuân” đi. Các chị đã bảo nhau phải dũng cảm vượt lên nỗi sợ hãi dư luận để “xin mụn con” khi tuổi xế chiều.
Xin con, tìm hạnh phúc!
Video đang HOT
Ao ước trở thành mẹ quá lớn lao, khiến các chị bỏ qua mọi rào cản, bất kể người đàn ông đến với mình gia cảnh thế nào, miễn họ chấp nhận và đồng ý thỏa thuận cho các chị “xin con”. Mọi tổn thương do những lời bông đùa, đàm tiếu rồi cũng chai thành sẹo, các chị mạnh mẽ kiên cường sống cho chính mình và đứa con thân yêu.
Mái ấm tình thương ở xóm không chồng.
Chia sẻ chuyện đời mình, chị Bóng nghẹn ngào: “Phụ nữ nào chẳng muốn có chồng, có con, có gia đình hạnh phúc, chỉ tại cái duyên số thế nên đành chịu thôi. Cuộc sống vất vả, buồn bã quá nên chị em tôi mới làm liều đi xin con để có được chút niềm vui, an ủi khi tuổi già. Tôi chẳng cần đòi hỏi hay ràng buộc gì với người đàn ông đến với tôi, chỉ cần người ta cho tôi đứa con. Đổi lại, tôi cũng không làm ảnh hưởng hay phá vỡ gia đình êm ấm của người cho tôi được làm mẹ”.
Giờ 2 đứa con đã trở thành chỗ dựa tinh thần để chị Bóng vui sống. Theo bà Lê Thị Nhuần, Chi hội trưởng Hội Phụ nữ thôn 3: “Ở tổ dân cư số 5, riêng 8 chị không chồng nay đã có đến 17 người con lẫn cháu, nhiều chị đã lên chức bà. Như chị Dựng (SN 1960) đã có 4 người con với 2 cháu ngoại, chị Thảnh (SN 1957) có 2 con, 2 cháu… Các cháu giờ cũng lớn khôn, biết đỡ đần công việc nặng nhọc trong gia đình và kiếm tiền về giúp mẹ. Xưa nay, các chị chưa từng để xảy ra chuyện điều tiếng hay ghen tuông gì ở địa phương!”.
Nhắc đến “những người đàn ông bí mật” của xóm không chồng, chị Thảnh dè dặt: Xưa nay chúng tôi sống rất hòa thuận, xin đứa con xong thì đường ai nấy đi không còn vướng bận. Tên của con được đặt theo họ bố, để sau này lũ con ra ngoài xã hội còn cảnh giác, cố tránh quan hệ huyết thống khi lỡ có tình cảm yêu đương. Đôi khi các con cũng tủi thân vì không có bố nhưng các con cũng hiểu cho hoàn cảnh của mẹ nên rất cảm thông và thương mẹ!
Hiu quạnh đồi C5
Từ năm 1993, do nông trường làm ăn thua lỗ và thay đổi phương thức quản lý trong canh tác cà phê nên các chị dần bị cho thôi việc. Không “mảnh đất cắm dùi”, các chị lên khoảnh đất trống trên đồi C5 dựng chòi tạm mấy chục mét vuông để che mưa che nắng, đi làm thuê, mót cà phê kiếm tiền nuôi con ăn học. Một mình gánh vác chuyện gia đình, nhìn căn nhà dột nát, các chị lại ước ao có bàn tay đàn ông để đỡ đần khi mưa gió.
Xóm không chồng ở đồi C5.
Nhớ lại tháng ngày kham khổ, chị Bóng nước mắt rưng rưng: Chúng tôi bị cho thôi việc vì già yếu, nông trường chỉ tuyển người trẻ vào làm mà quên đi công lao của chúng tôi. Mất việc, chị em chúng tôi cũng không được hưởng chế độ gì, nhiều lần đơn từ nhưng chỉ tốn công, mất sức!
Đồi C5 mỗi nhà mỗi cảnh, đều éo le. Chị Ngoan đã bước qua tuổi 58 phải lặn lội nuôi con; chị Bóng bị bệnh thần kinh tọa thêm đứa con đầu mắc chứng động kinh, cố làm mấy cũng vẫn nghèo kiệt. Ngày mẹ mất, chị Dựng chỉ biết gạt nước mắt khi không đủ tiền về quê. Do hoàn cảnh khó khăn, con các chị thường chỉ học đến lớp 3, lớp 4 là nghỉ, ở nhà giúp mẹ.
Anh Phạm Ngọc Tưởng, trưởng thôn 3 chia sẻ: “Hoàn cảnh của các chị rất khó khăn, hằng ngày phải đi làm thuê trong khi sức yếu lại có nhiều bệnh tật. Chúng tôi đã nhiều lần kiến nghị cấp đất cho các chị sản xuất nhưng do địa phương chưa có quỹ đất nên đến nay vẫn chưa giải quyết được”.
Chúng tôi rời xóm nhỏ trong cái nắng chiều tà, bạt ngàn cà phê xanh tốt xung quanh cũng không nhòa nổi ánh mắt các chị đượm buồn đau đáu nghĩ về một thời con gái!
Theo Xahoi
Hai bà mẹ của nghìn đứa con
Hơn 20 năm nay, hai người phụ nữ này đã "nhặt" hơn 1.000 đứa trẻ bất hạnh bị bỏ rơi ở gầm cầu, vệ đường, gốc cây... về cưu mang trong mái ấm Bình Minh (thôn Tân Mỹ, thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế).
Hai vị "Bồ Tát sống" đó là bà Đặng Thị Hiệp (56 tuổi) và bà Nguyễn Thị Lành (52 tuổi).
Mái nhà chung của trẻ bất hạnh
Giữa mưa và gió lạnh, chúng tôi di chuyển ngược TP.Huế về hướng biển hơn 15km để tìm về mái ấm Bình Minh với ý định gặp bằng được hai người phụ nữ được người dân trong vùng ví như những "Bồ Tát sống".
Bà Đặng Thị Hiệp (phải) và Nguyễn Thị Lành đang chăm sóc các em nhỏ tại mái ấm Bình Minh.
Trong căn nhà cấp 4 rộng chừng 100m2, một người đàn bà được những đứa trẻ nơi đây í ới gọi "mẹ Lành" đang tất tả dùng xô, thau hứng những giọt mưa nhỏ dột từ mái nhà xuống. Vừa chằng lại tấm tôn rách, bà Lành quay sang mở chuyện với chúng tôi bằng giọng trầm ấm rất Huế: "Mái ấm Bình Minh được xây dựng vào năm 1992 do một số người phát tâm đóng góp. Đến bây giờ trần nhà đã bị gió bão tàn phá nên lộ nhiều lỗ hổng, hễ mưa xuống là cả nhà sống trong cảnh dột nát. Mỗi năm mái ấm đón nhận khoảng 50 trẻ bị người thân đem bỏ ở công viên, vệ đường... cũng có trẻ được cha mẹ đưa đến đây gửi gắm. Những đứa trẻ nơi đây không chỉ ở địa bàn Thừa Thiên - Huế mà còn ở nhiều tỉnh, thành khác. Đến nay, mái ấm đã trở thành ngôi nhà chung của hơn 1.000 trẻ em và tất cả đều là những đứa con mà chúng tôi hết mực yêu thương".
Bà Lành chia sẻ, sau khi thu nạp về đây có những trẻ may mắn được những cặp vợ chồng hiếm muộn xin nhận làm con nuôi. Các em, dù khoẻ mạnh hay đau yếu đều được mái ấm Bình Minh cho ăn, học đàng hoàng. Hiện có rất nhiều em đang theo học ở các trường đại học, cao đẳng trên khắp cả nước. Bà Đặng Thị Hiệp - 1 trong 2 người mẹ gắn bó với mái ấm 20 năm qua, tự hào: "Nguyễn Ngọc Sơn mới vừa về thăm nhà đây. Chúng tôi nuôi nó từ khi còn đỏ hỏn, sau khi học xong ngành kế toán của Trường Cao đẳng Sư phạm Huế thì nó có việc làm, cuộc sống ổn định rồi".
Em Lê Nguyên Khôi lớn lên trong tình yêu thương của hai vị Bồ Tát sống.
Khi chúng tôi hỏi về chuyện lập gia đình, hai bà chỉ cười trừ rồi trả lời chắc chắn sẽ không lấy chồng với lý do đơn giản rằng: "Ở vậy để dành thời gian lo cho các con chứ lấy chồng rồi thì phải san sẻ tình yêu thương với hạnh phúc riêng của bản thân, tội nghiệp các con ở đây".
Nuôi một đứa con khỏe khoắn đã thấy mệt, đằng này hai bà chưa một lần sinh nở, thiếu kinh nghiệm làm mẹ, nhưng có thời điểm nhận nuôi một lúc 18 em nhỏ ở các độ tuổi khác nhau, trong đó có nhiều em mắc những bệnh nặng như bại não, liệt chân, tay... thì quả là khó khăn gấp bội phần. Bà Hiệp tâm sự: "Trời mát mẻ thì còn khỏe chứ trời nắng gắt hay mùa lạnh như hiện nay thì các con tôi đau ốm suốt".
Vừa tâm sự với chúng tôi, hai bà mẹ già cứ luôn chân luôn tay chăm cho đàn con. Có đứa, hai bà phải bón từng muỗng cơm, thìa cháo...
Nặng lòng cưu mang
Hầu hết những đứa trẻ bị bỏ rơi khi được đưa về đây đều mang trong mình bệnh tật do hậu quả từ lối sống buông thả, hoang lạc của những ông bố, bà mẹ trẻ. Nhẹ thì suy dinh dưỡng, viêm đường hô hấp. Nặng thì bị viêm não úng thủy, mất sức đề kháng, thiểu năng trí tuệ...
Các em ở mái ấm Bình Minh được chăm sóc, học hành đến nơi đến chốn nhưng các em vẫn thiếu một điều thiêng liêng của cuộc đời. Đó là tình yêu thương của cha mẹ ruột.
Khi chúng tôi hỏi về chuyện lập gia đình, hai bà chỉ cười trừ rồi trả lời chắc chắn sẽ không lấy chồng với lý do đơn giản rằng: "Ở vậy để dành thời gian lo cho các con chứ lấy chồng rồi thì phải san sẻ tình yêu thương với hạnh phúc riêng của bản thân, tội nghiệp các con ở đây".
Có nhiều hoàn cảnh để lại dấu ấn khó quên với hai bà. Đó là trường hợp em Nguyễn Thị Phương Anh. Mẹ của Phương Anh là sinh viên Đại học Huế, sau lần trót dại cô đã nhiều lần nhảy từ trên cây cao xuống đất để phá bỏ thai. Số phận không cho em chết, nhưng khi sinh ra em lại bị di tật ở chân, nằm bất động một chỗ.
Sau khi nhận em về, hai bà đi xin quyên góp từ các nhà hảo tâm cùng sự giúp đỡ tận tình của bác sĩ Lê Thanh Bình ở Bệnh viện T.Ư Huế nên sau nhiều lần phẫu thuật, Phương Anh đã đi lại được. Việc chạy chữa cho Phương Anh cũng là một cơ duyên vì chính cô sinh viên Trường Đại học Y tế Huế trước đây đã lầm lỡ có con với anh sinh viên cùng trường. Không dám cho gia đình, bạn bè biết nên đã đến mái ấm này tá túc rồi sinh con. Chính cô ấy đã dẫn bác sĩ về mái ấm chữa bệnh cho Phương Anh.
Một trường hợp khác là em Lê Nguyên Khôi (14 tuổi, học lớp 8, Trường THCS Phú Tân, thị trấn Thuận An). Khôi mồ côi đến hai lần. Bà Lành kể lại, ba mẹ Khôi không có điều kiện nên đã gửi gắm em ở đây. Được 1 tháng thì có người đến xin nuôi em. Vậy nhưng, đến năm Khôi được 11 tuổi thì mẹ nuôi lâm trọng bệnh qua đời. Biết chuyện, hai bà đã nhận em trở lại mái ấm Bình Minh và nuôi em ăn học từ đó đến nay. Em Khôi tâm sự: "Em sẽ học thật giỏi để sau này làm bác sĩ chữa bệnh cho các em nhỏ ở đây".
Chiều buông, chúng tôi rời mái ấm Bình Minh với lời nói của bà Hiệp còn văng vẳng trong đầu: "Mong sao những ông bố, bà mẹ, đặc biệt là các bạn trẻ hãy sống có trách nhiệm với những gì mình gây ra, đừng vứt bỏ con mình vì đó là những sinh linh vô tội. Điều đó quá nhẫn tâm".
Theo Ngọc Vũ
Phụ nữ độc thân đâu cả rồi? Họ ở khắp mọi nơi và họ thực sự hấp dẫn. Bạn không gặp được ai bởi bạn tự ti đó thôi. Tự "chụp mũ" rằng "chẳng có phụ nữ độc thân hấp dẫn" chỉ đẩy bạn ra xa với họ hơn. Bạn luôn tự bào chữa cho mình mà chẳng chịu cố gắng cải thiện tình hình. Bạn không muốn thực sự...