Nợ quốc gia “đội thêm” 1%, nhiều khoản nợ tăng… gấp đôi
Báo cáo kiểm toán năm 2013 của Kiểm toán nhà nước thể hiện, các chỉ tiêu giám sát nợ công và nợ nước ngoài quốc gia, tổng dư nợ đến 31/12/2012 là hơn 1,6 triệu tỷ đồng, bằng 55,7% GDP (năm 2011 là 54,9% GDP).
Trong đó, nợ Chính phủ là gần 1,3 triệu tỷ (chiếm 77,91% nợ công); nợ được Chính phủ bảo lãnh 340.000 tỷ đồng (chiếm 20,82%); nợ của chính quyền địa phương 20.886 tỷ đồng (chiếm 1,27%).
Dư nợ nước ngoài của quốc gia cũng tính đến thời điểm chốt năm 2012 là 1,2 triệu tỷ đồng (tương đương 58,2 tỷ USD), bằng 41,1% GDP (năm 2011 là 44,5% GDP).
Biểu đồ về nợ công và nợ phải trả của Việt Nam.
Kiểm toán nhà nước chỉ rõ, số dư nợ công năm 2012 tăng 250.000 tỷ đồng, tương đương 18% so với năm 2011. Trong đó, có một số khoản tăng trên 50% như nợ của chính quyền địa phương tăng 91,9% (gần gấp đôi, từ 10.884 tỷ đồng năm 2011 lên 20.886 tỷ đồng năm 2012); các khoản huy động bằng trái phiếu chính phủ tăng 55,24%; bảo lãnh phát hành trái phiếu ngân hàng chính sách xã hội tăng 50,45%.
Tỷ trọng các khoản nợ công được khái quát là có sự thay đổi về cơ cấu khi nợ vay trong nước tăng, nợ vay nước ngoài giảm.
Đi sâu vào các khoản vay nước ngoài về cho vay lại, Kiểm toán nhà nước dẫn báo cáo của Bộ Tài chính, nợ phải trả nước ngoài dùng để cho vay lại đến 31/12/2012 tương đương 14,27 tỷ USD, tăng 13,7% so với năm 2011. Dư nợ cho vay lại đối với các khách hàng/dự án vay lại là 11,8 tỷ USD.
Công tác quản lý các khoản vay nước ngoài về cho vay lại của Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại – Bộ Tài chính bị “phê” nhiều vấn đề khi chưa co bao cao tông hơp, phân tích, đánh giá rủi ro (tín dụng, tỷ giá…) đối với các khoản cho vay lại để xác định tình hình nợ xấu và nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ. Tình trạng các chủ dự án nhận nợ chậm, thu hồi gốc, lãi về Quỹ tích lũy không kịp thời còn khá phổ biến.
Về vấn đề bảo lãnh Chính phủ vay vốn nước ngoài, hết năm 2012, số nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh là 7,2 tỷ USD, tăng 28,57%. Kết quả kiểm toán cho thấy, tại thời điểm thẩm định cấp bảo lãnh, hầu hết các chủ đầu tư dự án chưa bố trí đủ mức vốn chu sơ hưu tối thiểu bằng 20% tổng vốn đầu tư, chưa báo cáo về tiến độ góp vốn chủ sở hữu trong quá trình triển khai dự án.
Video đang HOT
Có 16/53 dự án đã hoàn thành rút vốn và nghiệm thu quá 6 tháng nhưng chưa đăng ký tài sản đảm bảo theo quy định. Kiểm toán nhà nước dẫn chứng nhiều trường hợp như dự án Nhiêt điên Câm Pha (vay bao lanh Chinh phu 225,25 triêu USD); Dư an Nhiêt điên Ca Mau 2 (216,25 triêu USD); Dư an Nhiêt điên chu trinh hôn hơp Nhơn Trach 2 (164,62 triêu USD); Dư an Nhiêt điên Sơn Đông (247,2 triêu USD)…
Môt sô dư an đa đươc câp bao lanh nôp phi châm hoăc không nôp phi bao lanh. Viêc ưng tra nơ thay cho cac dư an đươc Chinh phu bao lanh co xu hương ngay cang tăng. Năm 2012, Bộ Tài chính đã trả nợ thay cho 5 dự án với tổng sô tiên là 1.206 ty đồng, tăng 603 tỷ đồng (tương ứng tăng 100,1%) so với năm 2011. Các dự án được Kiểm toán nhà nước điểm danh như Nha may Giấy Phương Nam 231,42 ty đông (8,55 triêu EUR); Xi măng Đồng Bành 142,46 ty đông (6,84 triêu USD); Xi măng Hạ Long 421,97 ty đông (15,59 triêu EUR)…
Về dư nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia, theo sô liêu của Bô Tai chinh, đên 31/12/2012, dư nợ Chính phủ bằng 38,9% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia bằng 37,4% GDP ; dư nợ công bằng 55,7% GDP (tăng gần 1% so với 2011) .
Tuy nhiên, Kiểm toán nhà nước không xác nhận số liệu nợ công này do đặc điểm tổ chức quản lý và công tác kế toán, lập báo cáo thông tin về nợ công phân tán, không đủ cơ sở xác nhận. Dù vậy, Tổng Kiểm toán nhà nước Nguyễn Hữu Vạn kết luận, kết quả kiểm toán cho thây Bô Tai chinh thông kê, tổng hợp sô liêu nơ công chưa kip thơi, đây đu; còn bao cao thừa, thiếu một số khoản vay, dân đên số liệu nợ công năm 2012 giảm 1.632 ty đông so với số báo cáo cua Bộ Tài chính.
P.Thảo
Theo dantri
Nỗi lo trả nợ công
Theo phê duyệt của Chính phủ, năm nay Việt Nam sẽ vay 367.000 tỉ đồng (17,5 tỉ USD), xấp xỉ 10% GDP và tăng gấp đôi so với năm 2013.
Bảng ước tính nợ công trên The Economist - Ảnh: The Economis
Số vay ngày càng lớn trong khi thu ngân sách (NS) ngày càng khó khăn không chỉ gây sức ép lên khả năng trả nợ mà còn các mối nguy gây bất ổn vĩ mô khác. Trong phiên thảo luận tổ về tình hình kinh tế - xã hội cuối tuần qua, nhiều ĐBQH cũng kiến nghị phải làm rõ nguồn chi trả nợ công. Thanh Niên đã có cuộc trò chuyện với ông Đỗ Thiên Anh Tuấn, giảng viên chương trình Giảng dạy kinh tế Fulbright, xung quanh khả năng trả nợ, các nguồn tiền để trả nợ, ngưỡng an toàn nợ công...
Ông Đỗ Thiên Anh Tuấn - Ảnh: Nhân vật cung cấp
* Chúng ta có thể lấy từ các nguồn nào để trả nợ, thưa ông?
- Theo bản tin nợ công số 2 của Bộ Tài chính thì trong năm 2012 chúng ta phải trả lãi tổng cộng gần 2,7 tỉ USD, trong đó hơn 2,1 tỉ USD là nợ lãi trong nước, còn lại gần 0,6 tỉ USD là nợ lãi nước ngoài. Ngoài ra, tổng nợ gốc phải trả trong năm này là hơn 4 tỉ USD. Như vậy, tổng chi trả nợ này đã chiếm gần 16% chi NS của năm 2012. Với kế hoạch trả nợ 208.883 tỉ đồng mà Chính phủ vừa phê duyệt cho năm nay cũng chiếm khoảng hơn 20% tổng chi ngân sách dự toán 2014.
Về nguồn tiền để trả nợ, trước hết là từ nguồn thu NS hằng năm trong đó chủ yếu là các khoản thuế và phí/lệ phí. Trong điều kiện nguồn thu eo hẹp hiện nay thì việc phải dành một phần NS để trả nợ sẽ lấy đi nguồn lực dành cho các khoản chi tiêu khác cũng như chi cho đầu tư và phát triển. Nếu cứ như vậy, đến một lúc nào đó khoản nợ cộng với lãi tích tụ sẽ ăn hết vào chiếc bánh NS.
Trong ngắn hạn, để có nguồn trả nợ nhưng vẫn phải đáp ứng nhu cầu chi tiêu, phải đảo nợ, tức là đi vay nợ mới để trả nợ cũ. Đơn cử, trong khoản vay 367.000 tỉ đồng năm nay Chính phủ cũng dự tính dành khoảng 70.000 tỉ đồng để đảo nợ.
Để có nguồn trả nợ bền vững, nguyên tắc đơn giản là NS phải có thặng dư cơ bản. Thế nhưng, mấy chục năm kể từ khi đổi mới chưa có năm nào chúng ta có thặng dư NS cả. Trong lộ trình cải cách tài chính đến năm 2020 mà Chính phủ đã đề ra, dù các kỷ luật tài khóa bắt đầu được đề cập nhưng chúng ta vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong giải quyết nợ công.
Chúng ta không thể ăn đong như vậy mãi được. Nguyên tắc tài khóa vàng (golden rule) là Chính phủ chỉ nên đi vay để đầu tư thay vì chi tiêu. Vì đầu tư sẽ tạo ra thu nhập mới trả được nợ. Nhưng với chúng ta ngay cả đầu tư cũng bị thất thoát, không hiệu quả thì lấy gì mà trả nợ. Tình thế khó của chúng ta là như vậy.
* Vay nợ mới trả nợ cũ nghe qua thì có vẻ nợ không đổi nhưng theo nguyên tắc bù rủi ro tín dụng thì chi phí nợ thực chất phải tăng lên?
- Đúng vậy. Quy mô nợ không đổi nhưng bản chất là con nợ đang bị suy yếu khả năng trả nợ. Để phản ánh rủi ro này, chủ nợ phải cộng bù rủi ro vào lãi suất cho vay. Chẳng hạn, nếu vay khoản đầu tôi tính bạn lãi suất 10% nhưng nếu bạn đi vay mới để trả cũ thì tôi phải tính bạn là 11%, rồi lại vay mới để trả nợ cũ tiếp thì tôi tính bạn 12%. Khoản bù rủi ro này cũng có thể xem là chi phí khốn khó tài chính. Với quy mô nợ công ngày càng tăng lên như hiện nay thì chi phí khốn khó tài chính sẽ ngày một lớn. Gánh nặng nợ công đặt lên vai của Chính phủ, mà thực chất là đang đặt lên vai của người dân chúng ta ngày một nặng.
* Giữa nợ trong nước với lãi suất cao hơn và nợ nước ngoài phải trả bằng ngoại tệ, món nợ nào nguy hiểm hơn?
- Đối với nợ trong nước, về lý thuyết Chính phủ sẽ không bao giờ vỡ nợ bởi Chính phủ có đặc quyền đánh thuế nên có thể tạo được nguồn thu thuế để trả nợ. Ngay cả khi nguồn thu bị hạn hẹp, Chính phủ lại có một đặc quyền khác, nói nôm na, là in tiền để trả nợ. Việc in tiền cũng tựa như một thứ thuế đánh lên thu nhập của người dân vì nó làm giảm thu nhập thực của họ khi lạm phát tăng lên. Cả hai việc này đều gây biến dạng hành vi của nền kinh tế hay các rủi ro bất ổn vĩ mô khác.
Trong điều kiện nguồn thu eo hẹp hiện nay thì việc phải dành một phần ngân sách để trả nợ sẽ lấy đi nguồn lực dành cho các khoản chi tiêu khác cũng như chi cho đầu tư và phát triển. Nếu cứ như vậy, đến một lúc nào đó khoản nợ cộng với lãi tích tụ sẽ ăn hết vào chiếc bánh ngân sách
Với nợ nước ngoài, Chính phủ phải tích lũy đủ ngoại tệ như USD, euro hay yen Nhật để trả chứ không thể in tiền hay thu thuế bằng VND được. Như vậy, khả năng trả nợ nước ngoài phụ thuộc vào mức dự trữ ngoại tệ quốc gia hiện hành cũng như tiềm năng tạo ra tích lũy ngoại tệ của nền kinh tế trong tương lai. Nếu dự trữ ngoại tệ quá mỏng sẽ không chỉ làm phát sinh rủi ro về khả năng trả nợ mà còn là sức ép đối với tỷ giá.
* Thống đốc NHNN mới công bố, dự trữ ngoại tệ năm nay đạt kỷ lục, 35 tỉ USD. Theo ông, con số này có thể giúp chúng ta "kê cao gối" với khoản nợ nước ngoài không?
- Tất nhiên là không rồi. Cần nhìn nhận một cách khách quan rằng khoản dự trữ ngoại tệ mà chúng ta có được thực chất lại là một khoản nợ. Việt Nam bị thâm hụt thương mại nên phải đi vay nợ nước ngoài. NHNN mua ngoại tệ vào nhưng phải bán ra các giấy nợ (IOU), tức bản chất cũng là một cục nợ. Trong ngắn hạn, dự trữ ngoại tệ có thể có ích để trả nợ vì chúng ta có quyền sử dụng nó tạm thời nhưng về dài hạn thì không vì chúng ta không có quyền sở hữu nó khi chúng ta vẫn thâm hụt thương mại. Nợ nước ngoài và khả năng trả nợ nước ngoài không phải đến từ nguồn dự trữ ngoại tệ mà phải đến từ năng lực sản xuất nội tại của nền kinh tế, của khu vực doanh nghiệp có năng suất, có khả năng cạnh tranh quốc tế, có thể xuất khẩu để mang về ngoại tệ thuộc sở hữu của chính quốc gia mà trả nợ. Trong bối cảnh Việt Nam, thật khó để nói là chúng ta "kê cao gối" để ngủ được.
Mỗi người Việt đang gánh hơn 900 USD nợ công Đồng hồ nợ công thế giới (The Global Debt Clock - GDC) của tạp chí The Economist hôm qua, ngày 25.5, điểm nợ công của Việt Nam xấp xỉ 81,5 tỉ USD, với tổng dư nợ tăng 11% mỗi năm, chiếm 47,8% GDP. Nếu tính số dân trên 90,670 triệu người, mỗi người Việt hiện đang gánh trên vai trung bình 901,05 USD (gần 20 triệu đồng). Cách đây chưa tới 2 tháng, ngày 27.3, con số này 887,51 USD. Nếu lấy mốc cách đây 10 năm, năm 2004, cũng theo The Economist, mỗi người Việt lúc đó chỉ gánh 211 USD nợ công và tổng nợ công là 17,4 tỉ USD. Như vậy, mỗi người Việt hiện đang gánh số nợ công cao gấp 4 lần so với 10 năm về trước. Ng.Nga
Quy mô khu vực công ngày càng phình to Tỷ lệ nợ công ngày càng lớn thứ nhất do quy mô khu vực công của chúng ta đang ngày càng phình to ra ở cả cấp quản lý hành chính và khu vực kinh tế nhà nước. Nói là chúng ta cải cách hành chính, tinh giản biên chế nhưng bộ máy vẫn cứ phình to mà hiệu quả chưa chắc đã hơn. Rồi khu vực kinh tế nhà nước cũng tương tự, đầu tư công và đầu tư của DNNN ngày càng lấn át khu vực tư nhân. Nhu cầu đầu tư quá lớn buộc chúng ta phải gia tăng vay nợ khiến khoản nợ ngày càng phình to ra. Sở dĩ có tình trạng này là vì nhiều nguyên nhân. Chẳng hạn tính kỷ luật, kỷ cương tài khóa quá kém. Hằng năm, Quốc hội dành rất nhiều thời gian để thảo luận và thông qua dự toán nhưng quyết toán lại một nẻo. Chính phủ có giải trình nhưng kết quả thì sao? Vấn đề này đã kéo dài nhiều năm chứ không phải cá biệt một năm. Đó chính là lý do khiến nợ công ngày càng phình to.
Theo TNO
Chính phủ phải ứng trả nợ thay cho dự án ngày càng tăng Đây là một trong những nội dung đáng chú ý được Kiểm toán Nhà nước chỉ ra trong Báo cáo kết quả kiểm toán năm 2013. Công trình cầu Thăng Long (Hà Nội) được sửa chữa nhiều lần vẫn xuống cấp - Ảnh: Ngọc Thắng Báo cáo số 125 do Tổng kiểm toán Nhà nước Nguyễn Hữu Vạn ký cho biết, năm 2013,...