Nỗ lực cải thiện môi trường làng nghề tại Bắc Ninh
Tỉnh Bắc Ninh là một trong những địa phương có nhiều làng nghề nhất cả nước. Bên cạnh các giá trị kinh tế các làng nghề mang lại, vấn đề ô nhiễm môi trường luôn là nỗi lo, đặt ra nhiều thách thức đối với địa phương.
Để giải quyết bài toán này, tỉnh Bắc Ninh đang triển khai nhiều giải pháp từng bước cải thiện môi trường tại các làng nghề, cụm công nghiệp làng nghề, nhất là tại các làng nghề bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Nghề cô đúc nhôm tại xã Đại Bái, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
Làng Đại Bái (xã Đại Bái, huyện Gia Bình) nổi tiếng với nghề đúc đồng, với những sản phẩm như: tượng đồng, đỉnh đồng, lư hương, tranh câu đối bằng đồng… Hiện làng có 1.198 hộ làm nghề, trong đó có 708 hộ sản xuất hộ sản xuất hàng dân dụng, 301 hộ sản xuất hàng mỹ nghệ và 189 hộ đúc nhôm, đồng. Năm 2022, doanh thu của làng nghề đạt khoảng 300 tỷ đồng; thu nhập bình quân đầu người dao động từ 50 – 70 triệu đồng/người/năm. Tuy nhiên, môi trường ở đây ngày càng ô nhiễm nghiêm trọng.
Ông Nguyễn Văn Quảng, Chủ tịch UBND xã Đại Bái cho biết, làng nghề đang phải gánh chịu hậu quả nghiêm trọng từ phát triển nghề gò đúc đồng. Nguyên nhân chủ yếu là do rác thải của các hộ làm nghề đúc đồng, cô bã nhôm đổ bừa bãi ra môi trường, nước thải của các hộ làm nghề có hóa chất như axít, sút… không được quy hoạch vào khu tập trung để xử lý mà đổ trực tiếp ra các lòng sông, ao hồ, mương. Các hộ đúc, cô phế liệu chưa xây dựng ống khói đạt tiêu chuẩn, đã làm ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe của nhân dân trong làng.
Bên cạnh đó, công nghệ sản xuất còn lạc hậu, điều kiện cơ sở hạ tầng, trình độ và mặt bằng dân trí thấp. Những hạn chế về khả năng đầu tư, điều kiện cạnh tranh trên thị trường làm tăng mức đầu tư phát sinh và ô nhiễm môi trường. Các hộ sản xuất, kể cả các xưởng sản xuất đều được xây dựng sơ sài. Diện tích chật hẹp, hệ thống điện, nước lắp đặt tùy tiện, không an toàn. Hệ thống thu gom nước thải từ các hộ sản xuất và sinh hoạt cũng chưa được phân loại xử lý mà vẫn đổ trực tiếp ra môi trường…
Theo ông Nguyễn Văn Quảng, nhận thức của nhân dân còn thấp, ý thức chung trong việc bảo vệ môi trường chưa cao khiến tình trạng môi trường trong làng nghiệp làng nghề ngày càng bị ô nhiễm. Cụ thể, người dân làng Đại Bái thường phải hít không khí năng, có mùi khét do các hộ đúc, cô phế thải đồng nhôm gây ra, hoặc thường xuyên mắc các bệnh về đường hô hấp, bệnh ngoài da.
UBND xã Đại Bái đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm cải thiện môi trường như quy hoạch khu bãi rác thải tập trung rộng hơn 8.000 m2 nhằm giảm thiểu tình trạng ứ đọng, ô nhiễm nguồn rác thải. Quy định ống khói của các hộ đúc, cô phế liệu phải xây dựng cao từ 12 mét trở lên, các hộ có máy móc sản xuất phải tuân thủ thời gian quy định làm việc từ 5 đến 19 giờ hàng ngày, không làm quá thời gian quy định. Các hộ tẩy, rửa hóa chất lớn bắt buộc phải xây dựng bể chứa lắng đọng…
Cách làng nghề đúc đồng Đại Bái không xa, làng Quảng Bố, xã Quảng Phú, huyện Lương Tài, nổi tiếng khắp cả nước với những sản phẩm cơ khí chi tiết được đúc từ đồng. Đến nay, nghề đúc đồng truyền thống của làng phát triển cả về số lượng và chất lượng với hàng trăm công ty, cơ sở sản xuất. Sự phát triển nhanh của làng nghề đã đặt ra nhiều thách thức trong công tác bảo vệ môi trường.
Theo ông Trịnh Văn Thăng, Chủ tịch UBND xã Quảng Phú, làng Quảng Bố hiện có khoảng 800 hộ, doanh nghiệp sản xuất cơ khí từ đồng, kim loại và từ nhựa, trong đó, các doanh nghiệp chiếm khoảng 60%. Việc sản xuất trong khu dân cư đã ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường làng nghề. Về lâu dài, nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài tình trạng ô nhiễm khói, bụi, ô nhiễm tiếng ồn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người dân.
Video đang HOT
Để khắc phục tình trạng này, trước mắt, xã đã yêu cầu các doanh nghiệp, hộ kinh doanh đầu tư xây dựng hệ thống xử lý khói; đồng thời kiến nghị lên các cấp có thẩm quyền về việc thành lập cụm làng nghề để giải quyết triệt để vấn đề về ô nhiễm môi trường.
Nỗ lực cải thiện môi trường làng nghề
Những sản phẩm cơ khí chi tiết được đúc từ đồng ở làng Quảng Bố, xã Quảng Phú, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh.
Tỉnh Bắc Ninh hiện có 62 làng nghề, trong đó có 30 làng nghề thủ công truyền thống, nổi bật như: làng nghề gỗ Đồng Kỵ, gốm Phù Lãng, đúc đồng Đại Bái, chạm khắc gỗ Phù Khê. Hiện các làng nghề có trên 28.000 hộ tham gia, với gần 74 nghìn lao động làm nghề, tạo ra sản phẩm hàng hóa trên 12.000 tỷ đồng/năm, mang lại thu nhập ổn định hơn 8 triệu đồng/người/tháng. Tuy nhiên, hiện nay, địa bàn tỉnh có nhiều làng nghề đang bị ô nhiễm nghiêm trọng, ở mức “báo động đỏ” như làng nghề giấy Phong Khê, thành phố Bắc Ninh, làng nghề giấy Phú Lâm, huyện Tiên Du, làng nghề tái chế nhôm Mẫn Xá, xã Văn Môn, huyện Yên Phong…
Theo Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Ninh, hầu hết các làng nghề trên địa bàn tỉnh đều chưa đáp ứng được các điều kiện về bảo vệ môi trường theo quy định, các cơ sở sản xuất trong các làng nghề cơ bản không đầu tư xây dựng các công trình xử lý đối với các loại chất thải phát sinh. Môi trường không khí tại một số khu vực làng nghề bị ô nhiễm nặng (làng nghề thép Châu Khê và làng nghề giấy Phong Khê). Chất thải của các làng nghề làm ô nhiễm nước mặt, nước ngầm, đất và không khi khu vực, điển hình như làng nghề tái chế nhôm Văn Môn và làng nghề giấy Phong Khê.
Hiện nay, đa số các làng nghề trong tỉnh có quy mô sản xuất nhỏ lẻ, dây chuyền công nghệ thủ công, lạc hậu, tiêu tốn nhiều nguyên, nhiên liệu, cho nên tình trạng ô nhiễm môi trường đang ngày càng trở nên nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và sức khỏe người dân. Mặt khác, do chưa có quy hoạch tổng thể nên các cơ sở sản xuất nằm xen kẽ trong vùng dân cư, thiếu mặt bằng sản xuất; đa số các làng nghề chưa được đầu tư đồng bộ hệ thống thu gom và xử lý nước thải nên có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nước mặt cục bộ tại địa phương. Bên cạnh đó, nguồn vốn đầu tư để mở rộng sản xuất, kinh doanh hạn chế, thiết bị công nghệ chế biến thô sơ, số cơ sở sản xuất, kinh doanh áp dụng dây chuyền sản xuất hiện đại còn ít.
Tại một số làng nghề,hành vi xả trộm nước thải ra môi trường vẫn còn song khó phát hiện và xử lý dứt điểm; vẫn còn những trường hợp chưa chấp hành, có hiện tượng làm hệ thống xử lý môi trường chỉ để đối phó với đoàn kiểm tra; tình trạng cơ sở sản xuất lén lút hoạt động vào ban đêm, tự tháo niêm phong hoạt động gây bức xúc trong nhân dân…
Ông Nguyễn Đình Phương, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Ninh cho biết, tỉnh đã và đang triển khai nhiều giải pháp quyết liệt, đồng bộ, phù hợp thực tiễn cơ sở, nhằm vừa đáp ứng nguyện vọng của cả người dân và doanh nghiệp, vừa giải quyết căn bản, căn cơ công tác bảo vệ môi trường.
Theo ông Nguyễn Đình Phương, Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã ban hành Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐND về việc quy định một số chính sách đầu tư, hỗ trợ xử lý ô nhiễm môi trường khu vực nông thôn, làng nghề trên địa bàn tỉnh. Theo đó, tỉnh hỗ trợ 100% kinh phí vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt từ điểm trung chuyển đến khu xử lý và kinh phí xử lý; nhân dân đóng góp kinh phí thu gom, vận chuyển từ hộ gia đình đến điểm trung chuyển theo quy định. Đối với khu vực làng nghề, tỉnh hỗ trợ 100% kinh phí thu gom, vận chuyển và xử lý đối với chất thải rắn tồn đọng từ trước đến thời điểm dự án được UBND tỉnh phê duyệt.
Với các khu vực ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, các địa phương nâng cấp lên đô thị và xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu được hỗ trợ đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung. Trong đó, các dự án do doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư được giao đất đã giải phóng mặt bằng, miễn tiền thuê đất theo quy định của pháp luật; được hỗ trợ đầu tư xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước và được hưởng các ưu đãi, hỗ trợ khác sau khi đầu tư hoàn thành theo các quy định hiện hành.
Bên cạnh đó, tỉnh tập trung đầu tư xử lý làng nghề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung đối với các đô thị trên địa bàn các huyện chưa có hệ thống xử lý, lập dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường đối với các cụm công nghiệp hiện đã đi vào hoạt động. Đồng thời, bố trí nguồn vốn cho đầu tư các công trình xử lý môi trường khu vực nông thôn, làng nghề, giải quyết các vấn đề môi trường tồn đọng.
Tỉnh Bắc Ninh đã đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải giai đoạn I công suất 5.000 m3/ngày đêm tại phường Phong Khê, thành phố Bắc Ninh; làng nghề bún Khắc Niệm, thành phố Bắc Ninh được đầu tư hệ thống xử lý nước thải công suất 400 m3/ngày đêm; đưa vào vận hành giai đoạn 1 nhà máy xử lý nước thải ở thành phố Từ Sơn với công suất 33.000 m3/ngày đêm.
UBND tỉnh đã cho phép UBND huyện Yên Phong triển khai Dự án thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn tồn đọng tại làng nghề Mẫn Xá, xã Văn Môn; dự án đầu tư xây dựng khu xử lý chất thải rắn sinh hoạt và chất thải làng nghề Mẫn Xá với diện tích 3,8 ha; đầu tư xây dựng cụm công nghiệp làng nghề Mẫn Xá để di chuyển các cơ sở trong làng nghề ra cụm công nghiệp.
Giảm thiểu chất thải rắn sinh hoạt phát sinh tại nguồn
Quá trình đô thị hóa và sự gia tăng dân số diễn ra mạnh mẽ đã tạo ra áp lực lớn tới môi trường khi lượng chất thải rắn nói chung và chất thải rắn sinh hoạt nói riêng đang phát sinh ngày càng nhiều.
Trong khi đó, việc kiểm soát, quản lý loại chất thải này còn nhiều hạn chế, dẫn đến nguy cơ gây ra tác động tiêu cực đến hệ sinh thái, môi trường sống và sức khỏe con người.
Cần thống nhất đầu mối quản lý
Công nhân môi trường vệ sinh, dọn rác thải vương vãi ra đường tại đường Khúc Thừa Dụ (quận Cầu Giấy, Hà Nội). Ảnh (minh họa): Thành Đạt/TTXVN
Bàn về quy định quản lý chất thải rắn sinh hoạt trong Luật Bảo vệ môi trường 2020 và vai trò của cộng đồng dân cư, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Thế Chinh, nguyên Viện trưởng, Viện Chiến lược Chính sách Tài Nguyên và Môi trường cho rằng, những Quy định, Nghị định và Thông tư về Quản lý chất thải rắn đã nêu rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân trong hoạt động giảm thiểu chất thải rắn sinh hoạt phát sinh tại nguồn.
Để đạt được hiệu quả cao trong việc thực thi Luật, cần nâng cao năng lực thực hiện của địa phương; vai trò đồng thuận của người dân và xã hội trong việc cùng thực hiện quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo quy định của pháp luật; tăng cường hạ tầng kỹ thuật và công nghệ đảm bảo thực hiện tốt công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt, nhất là công tác giám sát, thanh tra... Hàng năm, cơ quan quản lý môi trường của Nhà nước nên có đánh giá về thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường đối với quản lý chất thải rắn sinh hoạt, từ đó có những điều chỉnh phù hợp, nhất là đối với quy định trong các nghị định, thông tư.
Ngoài ra, để khắc phục những bất cập về cơ chế, chính sách liên quan đến quản lý chất thải rắn sinh hoạt, Tiến sỹ Trần Văn Miều, Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam đề nghị thời gian tới cần thực hiện một số giải pháp như: Các cơ quan chức năng cần thống nhất đầu mối trong chỉ đạo thực hiện công tác bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; Trung ương và địa phương xây dựng chính sách cần tham vấn nhân dân, đối thoại với nhân dân và đảm bảo công tác phản biện, kiểm tra và giám sát của cộng đồng dân cư.
Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần xác định lộ trình từ nay đến năm 2024 tổ chức thực hiện phân loại rác tại nguồn, thu tiền theo khối lượng hoặc trọng lượng rác và xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm không phân loại rác; tăng cường truyền thông phổ biến cho người dân biết về những chính sách mới về thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt; phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân trong tuyên truyền vận động đoàn viên, hội viên và người dân thực hiện thu gom, phân loại rác tại nguồn, sử dụng bao bì đúng quy định và chuyển giao rác cho đơn vị dịch vụ.
Các đơn vị, địa phương tăng cường công tác theo dõi, kiểm tra, nhắc nhở người dân; quy hoạch xây dựng các điểm thu gom rác hợp lý, thuận tiện và đảm bảo cảnh quan môi trường; tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ cấp xã làm nhiệm vụ theo dõi việc phân loại rác và xử phạt các hành vi vi phạm.
Người gây ô nhiễm phải trả tiền
Đối với bất kỳ một hệ thống quản lý chất thải rắn nào thì phí chất thải là một hợp phần rất quan trọng. Phí chất thải không chỉ là vấn đề tài chính của một hệ thống mà còn tạo chức năng khuyến khích kinh tế nhằm định hướng người xả rác có những sự thay đổi trong hành vi, hướng tới thải những chất thải với thành phần và khối lượng phù hợp. Một trong những mô hình thu phí chất thải được các nước triển khai để đạt được mục đích kép trên đó là mô hình thu phí chất thải rắn dựa trên lượng thải.
Tại Việt Nam đã có các quy định về nguyên tắc "người gây ô nhiễm phải trả tiền", Việt Nam cần có lộ trình cụ thể để tăng nguồn thu từ dịch vụ chất thải rắn sinh hoạt, giảm dần gánh nặng trợ giá từ ngân sách nhà nước. Việc thu phí xử lý chất thải theo khối lượng được xác định là công cụ để phát triển thị trường thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải rắn sinh hoạt. Việc thu gom chất thải rắn sinh hoạt được tổ chức đấu thầu công khai cho các nhà thầu.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trịnh Thị Thanh, Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, tổ chức quản lý nhà nước, phát triển thị trường dịch vụ chất thải rắn sinh hoạt nên tập trung vào một đầu mối từ cấp Trung ương đến các địa phương.
Ở Việt Nam hiện nay, công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt đang giao cho nhiều bộ, ngành (sở, ngành tại các địa phương) quản lý:
Chính phủ đã có Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 3/2/2019, trong đó giao Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan thống nhất quản lý Nhà nước về chất thải rắn, một số địa phương đã bắt đầu định hướng giao cho Sở Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chuyên môn giúp việc. Tuy nhiên, các địa phương đều đề nghị để thực hiện tốt việc này cần sửa đổi chức năng, nhiệm vụ của các bộ và sửa đổi Nghị định quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh.
Đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ chất thải rắn sinh hoạt, cần từng bước áp dụng các công nghệ, thiết bị hiện đại đáp ứng các yêu cầu về chất lượng dịch vụ chất thải rắn sinh hoạt và chất lượng sản phẩm tái chế từ xử lý chất thải rắn sinh hoạt, nên tránh việc phát triển quá nhiều doanh nghiệp cung ứng dịch vụ thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt mà cần nâng cao năng lực, quy mô, sức cạnh tranh của đơn vị tham gia cung ứng dịch vụ chất thải rắn sinh hoạt.
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trịnh Thị Thanh cho rằng, Việt Nam nên sớm tiến hành thu phí vệ sinh theo khối lượng chất thải rắn sinh hoạt, việc này sẽ đẩy nhanh tiến độ phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn và khuyến khích người dân giảm thiểu chất thải rắn sinh hoạt, thúc đẩy tái chế chất thải rắn sinh hoạt.
Trong khu vực dân cư, phí vệ sinh cần được tính làm nhiều mức khác nhau tùy thuộc vào phương thức phục vụ, tránh việc thay đổi giá dịch vụ một cách đột ngột; cần có lộ trình cụ thể, thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, có thực hiện thí điểm để tạo sự đồng thuận, rút kinh nghiệm kịp thời, tránh gây bức xúc trong nhân dân; cần công khai, minh bạch thông tin về thị trường dịch vụ chất thải rắn sinh hoạt trên cơ sở thông tin về thị trường dịch vụ chất thải rắn sinh hoạt được xây dựng, cập nhật và tích hợp vào hệ thống cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia và của địa phương để cơ quan quản lý nhà nước và cộng đồng dân cư cùng theo dõi.
Ngoài ra, cần có kênh thông tin tiếp nhận ý kiến về chất lượng dịch vụ chất thải rắn sinh hoạt; cần công khai, minh bạch trong công tác đấu thầu, lựa chọn doanh nghiệp cung ứng dịch vụ chất thải rắn sinh hoạt, theo đó dần hạn chế hình thức đặt hàng, giao kế hoạch cung ứng dịch vụ chất thải rắn sinh hoạt cho các doanh nghiệp nhà nước, tiến tới để giá đấu thầu quyết định đơn vị trúng thầu.
Đối với các chủ nguồn thải phát sinh chất thải rắn sinh hoạt, cần phổ biến, tuyên truyền, giáo dục cùng nâng cao ý thức, hành vi bảo vệ môi trường trên nguyên tắc mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và người gây ô nhiễm cùng người hưởng lợi đều phải trả tiền. Hoạt động này phải tiến hành thường xuyên, liên tục, đổi mới các hình thức tuyên truyền trên phạm vi cả nước và được lồng ghép trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, không nên làm theo kiểu hô hào, khẩu hiệu.
Đồng thời, các cơ quan quản lý cần tăng cường chế độ thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm của các chủ thể thị trường dịch vụ chất thải rắn sinh hoạt để phòng ngừa cũng như kịp thời phát hiện và xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường. Theo đó, xem xét xử phạt các chủ thể của thị trường dịch vụ chất thải rắn sinh hoạt theo hình thức lũy tiến, tăng nặng dần sau mỗi lần vi phạm. Đối với các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ chất thải rắn sinh hoạt cần xem xét bổ sung việc đình chỉ hoạt động nếu để xảy ra vi phạm nhiều lần.
Nâng cao hiệu quả quản lý chất thải rắn sinh hoạt Ngày 14/6, tại Hà Nội, Viện Địa lý Nhân văn (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức Hội thảo "xã hội hóa thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt: Hiện trạng và giải pháp". Thu gom chất thải rắn đô thị...