Những vua chúa đánh trận siêu đẳng trong sử Việt (1)
Nhiều vị vua chúa đã được lịch sử Việt Nam ghi danh vì những chiến công quân sự xuất sắc, trước hoặc sau khi lên nắm quyền.
An Dương Vương, tên thật là Thục Phán, là vị vua đầu tiên và duy nhất của nhà nước Âu Lạc – nhà nước thứ hai trong lịch sử Việt Nam sau nhà nước Văn Lang của các vua Hùng. Theo sử cũ, ông làm vua trong khoảng thời gian từ 257 TCN đến 208 TCN.
Vào thời kỳ đó, Tần Thủy Hoàng đã thống nhất Trung Hoa và tiếp tục tham vọng xâm chiếm vùng đất phía Nam của các bộ tộc người Việt. Quân Tần do Đồ Thư chỉ huy đã đánh chiếm nhiều vùng đất của Bách Việt, nhập vào lãnh thổ Trung Hoa.
Trước tình hình này An Dương Vương đã chỉ huy cuộc kháng chiến chống Tần của quân dân Âu Lạc. Khi Đồ Thư đem quân tiến sâu vào đất Lạc Việt, Thục Phán lãnh đạo nhân dân chống giặc. Quân Tần đi đến đâu, Nhân dân Việt làm vườn không nhà trống đến đó. Quân Tần dần lâm vào tình trạng suy yếu do thiếu lương thực trầm trọng. Khi quân Tần đã kiệt sức thì quân Âu Lạc xuất trận. Đồ Thư mất mạng, quân Tần thua to, phải bỏ chạy về phương Bắc.
Sơ đồ thành Cổ Loa.
Sau chiến thắng, An Dương Vương cho xây thành Cổ Loa nhằm củng cố thêm khả năng phòng thủ quân sự. Tòa thành này có cấu trúc độc đáo, theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, được củng cố bởi mạng lưới hào nước liên kết với nhau chạy dưới chân thành. An Dương Vương cũng phát triển thuỷ binh và cho chế tạo nhiều vũ khí lợi hại, tạo lợi thế quân sự vững chắc cho Cổ Loa.
Ít lâu sau, Triệu Đà đem quân sang đánh Âu Lạc. Nhờ sự chuẩn bị quân sự tốt và ưu thế của thành Cổ Loa, An Dương Vương đã chống cự hiệu quả cuộc xâm lược này.
Triệu Đà buộc phải dùng kế nội gián bằng cuộc kết hôn giữa con trai mình, Trọng Thủy, và con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Sau khi nắm được bí mật quân sự của An Dương Vương thông qua con trai, Triệu Đà đã thành công trong việc chinh phục Âu Lạc, buộc An Dương Vương bỏ chạy và tự tử, kết thúc thời kỳ An Dương Vương.
Lý Nam Đế
Lý Nam Đế (503-548) tên thật là Lý Bí, còn gọi là Lý Bôn, sinh ra trong hoàn cảnh nước Việt bị nhà Lương đô hộ. Có tư chất thông minh, thể chất mạnh khỏe từ nhỏ, khi lớn lên Lý Bí trở thành một người văn võ song toàn, Lý Bí được tôn lên làm thủ lĩnh địa phương.
Ông được Thứ sử Tiêu Tư nhà Lương mời ra làm chức Giám quân ở Đức châu (huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay), nhưng do bất bình với các quan lại đô hộ tàn ác nên bỏ quan, về quê, chiêu binh mãi mã chống lại chính quyền đô hộ.
Được nhiều người hưởng ứng, lực lượng của Lý Bí lớn mạnh và thu phục được nhiều nhân vật xuất chúng như tù trưởng Triệu Túc cùng con là Triệu Quang Phục, Tinh Thiều, lão tướng Phạm Tu…
Video đang HOT
Lý Bí đã liên kết với các châu lân cận và cuối năm 541 chính thức khởi binh chống nhà Lương, khí thế rất mạnh. Tiêu Tư liệu không chống nổi quân Lý Bí, phải sai người mang của cải đến đút lót cho Lý Bí để được tha chạy thoát về Quảng Châu để quân của Lý Bí chiếm thành Long Biên.
Tháng 4/542, vua Lương Vũ Đế sai quân từ phường Bắc kết hợp với quân của các châu còn kiểm soát ở phía Nam tạo thành gọng kìm đánh Lý Bí. Lý Bí đã chủ động ra quân đánh trước, phá tan lực lượng quân Lương ở phía Nam đánh lui cuộc phản công của nhà Lương, làm chủ toàn bộ Giao Châu.
Cuối năm 542, quân Lương lại tiến sang, Lý Bí chủ động mang quân ra bán đảo Hợp Phố đón đánh khiến quân xâm lược thảm bại, 10 phần chết đến 6-7 phần. Sau chiến thắng này, Lý Bí kiểm soát thêm quận Hợp Phố (thuộc Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay).
Trong khi Lý Bí bận đối phó với nhà Lương ở phía Bắc thì tại phía Nam, vua nước Lâm Ấp “đục nước béo cò”, đem quân đánh Giao Châu vào tháng 5/543. Lý Bí sai Phạm Tu cầm quân đánh Lâm Ấp và thắng lớn.
Đầu năm 544, Lý Bí lên ngôi, tự xưng là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, Đan Phượng, Hà Nội).
Đến năm 545, nhà Lương cử Trần Bá Tiên và Dương Phiêu sang đánh nước Vạn Xuân, Lý Nam Đế bị thua trận, giao lại binh quyền cho Triệu Quang Phục.
Triệu Quang Phục (?-571) là con Triệu Túc, tù trưởng huyện Chu Diên. Ông cùng cha theo Lý Nam Đế khởi nghĩa từ ngày đầu (541), có công lao đánh đuổi quân Lương về nước, được trao chức tả tướng quân nước Vạn Xuân.
Năm 546, sau khi Lý Nam Đế thua trận phải lui về động Khuất Lạo, Triệu Quang Phục được ủy thác việc nước, điều quân đi đánh Trần Bá Tiên của nhà Lương.
Tháng 1/547, ông lui về giữ đầm Dạ Trạch (bãi Màn Trò, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên). Đầm này rộng, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở giữa có nền đất cao có thể ở được, bốn mặt bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc nhỏ chống sào đi lướt trên cỏ nước mới có thể vào được. Nếu không quen biết đường đi thì lạc không biết là đâu, lỡ rơi xuống nước liền bị rắn độc cắn chết.
Quang Phục thuộc rõ đường đi lối lại, đem hơn 2 vạn người vào đóng ở nền đất trong đầm, và dùng chiến thuật du kích, ban ngày tuyệt không để khói lửa và dấu người, ban đêm dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh doanh trại của quân Bá Tiên cướp lương thực vũ khí làm kế cầm cự lâu dài.
Năm 550, nhà Lương có loạn Hầu Cảnh, gọi Trần Bá Tiên về. Triệu Quang phục tận dụng thời cơ tung quân ra đánh. Quân Lương tan vỡ chạy về nước. Triệu Quang Phục vào thành Long Biên và xưng làm Triệu Việt Vương.
Đến năm 571, một người cháu của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử đã cướp ngôi Triệu Việt Vương, tiếp tục giữ được sự độc lập cho người Việt thêm 30 năm đến khi nhà Tùy sang đánh năm 602.
Ngô Quyền (898 – 944) sinh ra trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở châu Đường Lâm. Ông lớn lên khi chính quyền đô hộ của nhà Đường đang suy yếu và tan rã, khó lòng khống chế các thế lực hào trưởng người Việt ở địa phương, do đó dẫn tới sự xác lập quyền lực của họ Khúc ở phủ thành Đại La vào năm 905 và họ Dương vào năm 931.
Sau khi trở thành con rể cho Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền được tin cậy giao cai quản Ái Châu, đất bản bộ của họ Dương. Năm 937, hào trưởng đất Phong Châu là Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ để chiếm quyền, nhưng lại không có chỗ dựa chính trị vững chắc nên đã cầu cứu nhà Nam Hán để bảo vệ quyền lực của mình.
Ngô Quyền nhanh chóng tập hợp lực lượng, kéo quân ra Bắc, giết chết Kiều Công Tiễn rồi chuẩn bị quyết chiến với quân Nam Hán do Lưu Hoằng Tháo chỉ huy.
Lợi dụng chế độ thủy văn khắc nghiệt của sông Bạch Đằng, ông sai đóng cọc dưới lòng sông, đầu bịt sắt nhọn sao cho khi nước triều lên thì bãi cọc bị che lấp.
Mô hình trận Bạch Đằng.
Khi cuộc chiến diễn ra, Ngô Quyền đã nhử quân Nam Hán vào khu vực này khi thủy triều lên và đợi nước triều rút xuống cho thuyền quân Nam Hán mắc cạn mới giao chiến. Kết quả, quân Nam Hán thua chạy, Lưu Hoằng Tháo bỏ mạng cùng với quá nửa quân sĩ, nhà Nam Hán phải từ bỏ giấc mộng xâm lược.
Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền xưng vương, kết thúc hơn 1.000 năm Bắc thuộc, mở ra thời kỳ phong kiến độc lập tự chủ cho Việt Nam. Ông không có miếu hiệu và thụy hiệu, sử sách xưa nay chỉ gọi ông là Tiền Ngô Vương. Kinh đô của triều đại mới không nằm ở Đại La mà chuyển sang Cổ Loa, kinh đô của nước Âu Lạc từ thời An Dương Vương một nghìn năm trước.
Theo Kiến thức
Vĩnh biệt nhà khảo cổ Nhật - người bạn của Việt Nam
Tiến sĩ Nishimura Masanari, nhà khảo cổ học Nhật Bản có hơn 20 năm gắn bó nghiên cứu ở Việt Nam vừa thiệt mạng trong một tai nạn giao thông đường bộ ở Hà Nội.
Ngày 9/6, tiến sĩ Nishimura Masanari, người có nhiều đóng góp trong việc phát hiện, nghiên cứu các khuôn đúc trống đồng và mũi tên đồng ở Việt Nam, đã qua đời khi đi xe máy để khảo sát cuộc khai quật mới tại một địa điểm tiếp nối Quốc lộ số 5 và Quốc lộ số 1 mới, thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nôi.
Tiến sĩ Nishimura Masanari, người có đóng góp lớn với ngành Khảo cổ Việt Nam.
Tiến sĩ Masanari sinh năm 1965, tại thành phố Shimonoseki, Nhật Bản. Ông có tên tiếng Việt là Lý Văn Sỹ và nói tiếng Việt rất tốt. Ông bắt đầu đến Việt Nam năm 1990, trong chương trình hợp tác giữa Nhật Bản và Việt Nam để khai quật một số mộ cổ ở Nghĩa Đàn, Nghệ An.
Tiến sĩ Masanari, thuộc Đại học Tokyo, đang hợp tác với Việt Nam trong nhiều dự án từ nghiên cứu khảo cổ học tới bảo tồn di sản văn hóa. Ông có nhiều đóng góp trong các dự án nghiên cứu ở Luy Lâu, Cổ Loa... nhiều di chỉ, địa điểm khảo cổ học, sử học khác.
Ông là người phát hiện mảnh khuôn đúc trống đồng duy nhất từ trước đến nay, có niên đại khoảng thế kỷ 1-3 sau Công nguyên. Điều này cho thấy, trống đồng được đúc ra từ chính Việt Nam, chứ không phải từ nơi khác mang đến.
Ông còn là người có công đóng góp cho việc xây dựng Bảo tàng gốm Kim Lan và Dương Xá, tại Bắc Ninh. Không những vậy, ông cùng đồng nghiệp Việt Nam đã phát hiện các khuôn đúc mũi tên tại Luy Lâu. Điều này chứng tỏ mũi tên có niên đại thời kỳ An Dương Vương được sản xuất tại chỗ.
Sự ra đi của vị tiến sĩ đáng kính đã khiến nhiều người, đặc biệt là giới khảo cổ học bàng hoàng.
"Sự ra đi của ông Nishimura Masanari khiến cả ngành khảo cổ Việt Nam sững sờ", PGS Nguyễn Lân Cường, Phó tổng thư ký Hội khảo cổ học Việt Nam nói.
Là người có nhiều lần nghiên cứu với tiến sĩ Nishimura Masanari, ông Cường cho biết: "Nishimura Masanari là người trung thực, luôn giúp đỡ bạn bè. Ông là một trong những nhà khảo cổ có những nghiên cứu sâu nhất trong lĩnh vực này ở Việt Nam".
"Chúng tôi rất buồn và khẳng định là tiến sĩ Masanari rất không may đã từ trần. Trong giới nghiên cứu nói chung, giới khảo cổ học Việt Nam và mọi người từ sáng đến giờ đều rất sốc", PGS, TS, Viện trưởng Tống Trung Tín nói.
"Anh Nishimura đối với chúng tôi là một người bạn lớn của khảo cổ học Việt Nam, anh đã sang nghiên cứu ở Việt Nam từ cuối những năm 1980, đầu những năm 1990.
"Những công lao và phát hiện của anh ấy rất to lớn. Cách đây mấy năm, do hoạt động ở khu vực Luy Lâu, chính anh, cùng với các đồng nghiệp Việt Nam, đã phát hiện ra một mảnh khuôn đúc trống đồng ở Việt Nam. Cái đó có ý nghĩa rất lớn, vì trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam là một biểu tượng của thời kỳ dựng nước, biểu tượng của tinh thần dân tộc của Việt Nam ở thời kỳ đầu tiên dựng nước của dân tộc.
Đó đây, người ta cho rằng trống đồng không ở Việt Nam mà ở nơi khác truyền bá xuống, và một trong những điểm quan trọng trong lúc nghiên cứu biểu tượng này là rất ít tìm thấy công cụ để sản xuất ra trống đồng, tức là tìm thấy khuôn đúc, hay lò đúc...
Khi hoạt động ở Luy Lâu, TS Nishimura đã phát hiện ra được mảnh khuôn này, và do vậy, mảnh khuôn đó hiện nay có giá trị rất lớn trong nghiên cứu khoa học, khảo cổ học, thời đại kim khí, và nó được lưu giữ, bảo tồn ở Bảo tàng Bắc Ninh" - PGS Tín nói về đóng góp của đồng nghiệp nước ngoài đang hợp tác với Viện của ông.
Về đóng góp của nhà khoa học Nhật Bản vừa qua đời đối với nghiên cứu Việt Nam, nhà khảo cổ học Nguyễn Quốc Tuấn nói: "Do những kinh nghiệm của mình, anh cùng với các đồng nghiệp Việt Nam đã phát hiện ra các khuôn đúc mũi tên và do đó nó khẳng định rằng các mũi tên của Việt Nam thời đại kim khí, mà cụ thể ở đây được định niên đại là ở thời kỳ An Dương Vương, là được sản xuất tại chỗ".
Bên cạnh đó, TS Nishimura đã tham gia hàng chục cuộc khai quật lớn nhỏ, tham dự rất nhiều hội thảo khoa học quốc tế về Viêt Nam và luôn dành cho mảnh đất chứa nhiều trầm tích văn hóa này những lời lẽ đầy tình cảm trên các chứng cứ khoa học.
Vĩnh biệt Nishimura - nhà khảo cổ tài năng và tận tụy với Việt Nam, PGS -TS, Viện trưởng Tống Trung Tín cho biết, TS Nishimura Masanari sau khi qua đời, đã được đưa tới Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức ở Hà Nội và Viện Khảo cổ học Việt Nam đang phối hợp, hỗ trợ gia đình của nhà khoa học để chuẩn bị tổ chức công việc tang lễ TS Nishimura Masanari.
Theo Dantri
"Kỳ quái" sở thích đổ ra biển xem bão Trong lúc các cơ quan chức năng căng mình chống bão thì nhiều người dân Hải Phòng lại đua nhau ra biển để được tận mắt xem bão về. Họ háo hức đứng dưới những con sóng đánh cao gần chục mét để... chụp ảnh kỷ niệm! Vừa qua, khi cơn bão số 6 còn chưa vào tới đât liên, một thiêu niên...