Những vụ phá án “bất hủ” của lực lượng công an
Từ nhữ năm đầu mi thành lập, lực lợ cô an luôn lăn xả, triệt phá thành cô nhữ vụ án nghiêm trọ, “hóc hiểm”. Kỷ niệm 50 năm ngày truyền thố lực lợ cảnh s.át n.hân dân (20/7/1962-20/7/2012), cù Dân trí điểm lại một số chuyên án đã đio lịch sử của ngành.
Vụ trộm ấn và gia đì12 con giáp”
Vào một ngày cuối thá 6/1961, Bảo tà Lịch sử phát hiện một số hiện vật trng bày bị mất, trong đó có chiếc ấn và của Hoà hậu nhà Nguyễn nặ 4,9kg 1p và khác nặ 0,5kg. Đây là chiếc ấn đẹp, tinh xảo nhất trong số 32 chiếc ấn bảo tà đang lu giữ.
Bộ kim ấn, ngọc tỷ lu giữ tại Bảo tà Lịch sử.
Vụ án hết sức nghiêm trọ đợc Bộ Cô an tiếp nhận nhng khá “tắc” vì hiện trng vụ án khô giữ lạợc, khô ai xác định đợc thiểm mất ấn. Nửa năm sau, Sở Cô an Hà Nội nhận tin báo vụ trộm thứ 2 ở bảo tà này. Đồ bị mất là chiếc ấn “Cao đức Thái hoà Thái hậu” bằ bạc mà 2 quyển kim sách cũ bằ bạc mạ khắc chữ “Bảo lo, “Khảịnh thập niên”.
Hiện trng vụ án lập tức đợc tiếp cận, bảo vệ. Cô an thu đợc nhiều dấu vết, trong đó có 1 lá th bị xé rách làm 4 mảnh của ngi có tên Đỗ Mộ Dần (xã viên một lò gạch nào đó) viết th hỏi thăm các em là Ất, Mão, Giáp (đang học ở một lp hàm thụ), có các con hoặc cháu có tên Trung, Phong, Thanh…
Ban chuyên án tung lợ ln trinh sát điều tra ở khắp 11 tỉnh thành miền Bắc, kiểm tra từ nhân khẩu trong sổ điều tra dân số đến cấc lp học hàm thụ của 15 bộ, 17 tổ cục, 25 sở, rà khắp các lò gạch lân cận Hà Nội… để truy tìm nhữ ngi trong 1 gia đình đặt tên theo năm sinh.
Theo hng điều tra này nhng cũ phải 5 thá sau, một trinh sát mi phát hiện ở Kim Bả (Hà Nam) cói tên Đỗ Mộ Dần, có con là Ất làm thợ nề ở một cô trng ở Bạch Mai (Hà Nội). Nét chữ của ngi này hoàn toàn trù khp nét chữ trên bức th thu giữ đợc ở hiện trng vụ trộm ấn tại bảo tà.
Trinh sát sau đó xác định đợc Ất có mối quan hệ vi một số đối ợ nghi vấn tiêu thụ nhiều và truy ra đối ợ Nguyễn Văn Thợi có vân tay trù khp dấu vân để lại hiện trng. Qua đấu tranh, xét hỏi, Thợã khai nhận mình chính là thủ phạm vụ trộm ấn thứ nhất tại Bảo tà Lịch sử.
Xóa xổ băp đ gieo kinh hoà trên quốc lộ
Giữa năm 1989, d luận khắp khu vực từ miền Trung (Quả Bình) ra đến biên gii phía bắc (Hà Bắc, Quả Ninh) rất că thẳ, hoang mang vì liên tiếp nhữ vụ án bọn cp dù sú, chặn xe cp tài sản trên các tuyến quốc lộ. Tất cả các vụ án đều do một băp tự xng là Bạ gây ra. Nhóm cp có 3 tên là Nguyễn Văn Phái, Vũ Văn Huy (tự Lý Tử Long, Đinh Phong Ba), Nguyễn Văn Huy, đều ở Quả Ninh.
Video đang HOT
Khá” “nổi danh” đất Bắc
Cuối thá 5/1996, trên phố Kim Mã, quận Ba Đình, Hà Nội xảy ra vụ cp tài sản rất táo bạo, trắ trợn. Bọn cp gần 40 tên đi trên 4 xe tảến đ.ập p.há, lấy đi tài sản của 2 gia đình, trị giá 300 triệu đồ.
Lãnh đạo Bộ Nội vụ (Bộ Cô an bây gi) quyết định lập chuyên án, xác định kẻ cầm đầu, chỉ huy đàn em đến cp đoạt, “xiết nợ” là Dơ Văn Khánh (Khá”). 4 gi sau khi có quyết định phá án, hà chục tay chân đắc lực của Khá” đã bị bắt ở các địa điểm khác nhau. Khánh cũ bị bắt ít ngày sau đó.
Theo Dân Trí
Phần đời hoàn lương của tướng cướp Dũng “Ka cơ”
"Cuộc đời tôi như như những đường uốn lượn trong hình parabol, lúc lên voi, lúc xuống chó nhưng chưa bao giờ tôi sống hèn. Bất kể điều gì, dù lương thiện hay bất lương, tôi đều đã gắng sức làm hết mình...".
Quả thực, người đàn ông này có mặc sơ mi, quần âu, đeo cà vạt đi chăng nữa thì chất hải hồ, bụi bặm, phóng khoáng vẫn không giấu được trên khuôn mặt và vóc dáng. Cũng đúng thôi, bởi nếu chỉ nhìn vào cơ ngơi bề thế của anh bây giờ thì chẳng ai chịu tin rằng, anh ta từng là tướng cướp "2 tay hai súng"; từng vào tù, vượt ngục, trốn lệnh truy nã, làm "bưởng trưởng" với hàng trăm quân trên dải đất vàng sa khoáng Na Rì-Bắc Kạn, bãi đá đỏ Lục Yên-Yên Bái. Người đàn ông ấy là Dũng "Ka cơ".
"Bưởng trưởng" thành tướng cướp
Biệt hiệu "Ka cơ" mà người đời đặt cho Lê Văn Dũng nguyên do là Dũng nuôi một bộ râu rất đẹp, được uốn vểnh ngược lên trông qua như hình mặt người trong quân "Ka cơ" của bộ bài Tây.
Dũng sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo có đến 7 anh chị em. Vì là anh cả nên ngay từ nhỏ, Dũng đã phải làm nhiều việc để giúp bố mẹ, từ trông em, chăn trâu cắt cỏ, cày bừa, cấy hái... Học hết lớp 8 (hệ 10 năm, Dũng xung phong đi bộ đội.
Nhờ tố chất nhanh nhẹn, tháng 12/1978, Dũng được cử đi học lớp tiểu đội trưởng. Tháng 3/1979, chiến tranh biên giới nổ ra, anh quay về đơn vị, thực hiện nhiệm vụ đặt mìn, phá các cầu cống, công trình nhằm ngăn cản bước tiến công của quân địch. Năm 1980, nhân dịp được nghỉ phép 15 ngày, anh đã tranh thủ về quê cưới vợ và cũng chính năm đó Dũng được kết nạp Đảng và trở thành đảng viên t.uổi trẻ nhất trung đoàn. Cuộc đời Dũng bắt đầu cực kỳ suôn sẻ.
Nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương đến thăm cơ sở sản xuất tranh đá quý của ông Lê Văn Dũng
Chiến tranh biên giới kết thúc, Dũng được phân nhiệm vụ phụ trách một trung đội công binh công trình tại huyện Lục Nam, tỉnh Hà Bắc cũ. Dũng đã liều lĩnh bớt một phần thuốc nổ để đi đ.ánh cá đổi gia cầm, thức ăn cho anh em trong đơn vị cải thiện sinh hoạt. Mọi chuyện bị vỡ lở, lượng thuốc nổ hị hao hụt lên đến 200kg, Dũng bị khai trừ khỏi Đảng.
Ra quân, Dũng làm đủ mọi nghề để kiếm sống như đi chăn vịt thuê, buôn quần áo vắt vai khắp các chợ vùng cao phía bắc, buôn vàng, bạc trắng. Cái gì có thể mua đi bán lại được, từ xoong nồi, xô chậu, Dũng đều buôn tất.
Khi đã có tí vốn, Dũng bắt đầu chuyển sang đi buôn trâu với số lượng lớn và đó cũng chính là lần anh "dính án" đầu tiên. Ngày 14/7/1986, Dũng bị Công an Hai Bà Trưng, Hà Nội bắt và tuyên phạt 18 tháng tù giam về hành vi làm giả giấy tờ và con dấu.
Ở trong tù hơn 1 năm, nhờ tính tình hào sảng cộng thêm sự lọc lõi của con buôn, Dũng đã kết giao được với một số đối tượng anh chị ở các bãi vàng miền Bắc. Từ những câu chuyện họ kể, Dũng dằn mình cải tạo thật tốt và ấp ủ giấc mơ t.ìm v.àng.
Đúng theo dự tính, ngay sau khi ra tù, Dũng đã tập trung một số anh em quen biết cùng quê, "đổ bộ" lên vùng bãi Hang, xã Kim Sơn, huyện Na Rì, Bắc Kạn để kiếm ăn. Thời điểm này, cầm chịch bãi vàng là Giang "còi" - một tay anh chị cùng quê với Dũng.
Vào bãi vàng từ giữa năm 1988, đến cuối năm Dũng "Ka cơ" đã leo lên làm bưởng trưởng thay Giang "còi" vì Giang đã yếu thế, sống không được lòng anh em nên phải chấp nhận lùi xuống. Cũng từ đó, cái tên Dũng "Ka cơ" đã vang xa khắp nơi, cả vùng vàng lẫn trong chốn giang hồ dao búa xứ Bắc.
Đó cũng là giai đoạn mà đội quân do Dũng chỉ huy ăn nên làm ra không kể siết. Thời cao điểm, mỗi ngày ở bãi do Dũng chỉ huy khai thác được gần 30 cây vàng. Lương ở đây cũng được Dũng tính trả bằng vàng, mỗi người mỗi tháng được 1 chỉ.
Đang làm ăn suôn sẻ thì nạn sốt rét rừng liên tục xảy ra khiến đàn em của Dũng ốm nằm la liệt. Sập hầm sập hang cũng liên tục, có những vụ sập làm 2-3 người c.hết. "Thời kỳ làm ở bãi vàng Na Rì, có những lúc tôi có hàng tạ vàng. Nhưng vì tính phóng khoáng, lại thích ăn chơi nên cuối năm 1989, khi bãi vàng cạn kiệt, bao nhiêu vàng tích cóp trong mấy năm cũng tiêu tan hết. Vàng cạn kiệt, không còn t.iền, anh em bỏ đi hết, nghe nói tại Phổ Yên, Thái Nguyên đang có mỏ vàng với trữ lượng lớn nên tôi quyết định đưa quân về đó khai thác", Dũng nhớ lại.
Tháng 3/1990, Dũng và mấy người đàn em tin cậy bắt xe về Thái Nguyên để tìm hiểu các bãi vàng. Khi lên xe thì một đàn em của Dũng có mâu thuẫn với nhà xe về t.iền vé. Không ngại ngần, Dũng rút từ trong túi quần ra 2 khẩu s.úng và b.ắn 2 phát chỉ thiên bục nóc xe. Mọi người nằm rạp, hoảng hốt kêu gào. Dũng "đọc lệnh" bắt tất cả hành khách xuống xe, xếp thành hàng dọc rồi lấy hết đồ đạc, t.iền bạc của mọi người. Lần ấy, Dũng cướp được 64 triệu đồng.
Trước sự hung hãn, liều lĩnh, c.oi t.hường pháp luật của Dũng. Công an Bắc Kạn đã lập chuyên án, quyết tâm bắt bằng được băng cướp có vũ trang do Dũng cầm đầu. Vài ngày sau khi gây án, Dũng và đám đàn em bị bắt. Tuy nhiên, chỉ 1 tháng sau ngày bị bắt, trong khi Cơ quan điều tra đang hoàn tất hồ sơ để đưa Dũng cùng đồng bọn ra xét xử thì bất ngờ Dũng vượt ngục, trốn thoát.
Quyết định ra đầu thú khi Dũng đã quá thấm thía cái giá phải trả cho sự chụp giật, bất lương ở đời. Ra đầu thú, Dũng bị tòa án tuyên phạt 11 năm tù giam. Những tháng ngày tiếp theo trong trại giam Phú Sơn 4, Dũng luôn là đại diện cho các phạm nhân về tinh thần cải tạo, học tập. Trong nỗ lực hoàn lương đáng ghi nhận đó của Dũng, một cơ duyên "trời cho" đã đến. Một cuộc tình "trong song sắt" được coi là đẹp và hiếm có ở trại giam Phú Sơn 4 từ trước đến nay. Đó là chuyện tình của Dũng "tướng cướp" và chị Nguyễn Thị Kim Oanh - một giáo viên, một phạm nhân dính án "lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản".
Đúng ngày 30/4/2000, niềm vui đến với Dũng và Oanh khi trong đợt đặc xá ra tù. Ngày về với cuộc sống tự do thật vui không tả xiết, nhưng cả Dũng và Oanh đều hiểu rằng, phía trước là một cuộc sống chông gai, thử thách đang chờ...
Làm giàu từ... 15 ngàn đồng
Trở ngại đầu tiên của Dũng và Oanh đó việc gia đình Oanh phản đối kịch liệt chuyện tình cảm của hai người. Vì tình yêu, Oanh đã bỏ qua tất cả, trốn về sống với Dũng. Miền đá đỏ Lục Yên là nơi Dũng nghĩ đến đầu tiên để làm lại cuộc đời.
Với 3 triệu đồng do một người bạn tốt bụng cho mượn, Dũng cùng Oanh khăn gói đến Lục Yên. Dũng bảo: "Sau khi chi phí đi đường, thuê nhà, mua chiếc xe đạp, số vốn của tôi chỉ còn lại... 15 ngàn đồng".
Thời gian đầu khó khăn, Dũng đã hướng dẫn cho Oanh đi buôn đá đỏ nhỏ lẻ kiếm cơm ngày 3 bữa cho đội thợ. Còn Dũng mua cào, cuốc, lên núi cùng anh em trong đội làm thủ công kiếm đá. Khi tích cóp được chút t.iền, Dũng tính nước làm ăn.
Thị xã Sông Công, Thái Nguyên là nơi anh chọn để làm ăn. Anh xoay đủ mọi nghề từ cho thuê xe máy, cầm đồ, đến buôn bán tranh đá quý từ Lục Yên về Hà Nội, Hải Phòng. Năm 2004, khi đá đỏ được giá, anh bán đi một phần để lấy vốn làm ăn. Đầu năm 2006, anh lập một xưởng làm tranh đá quý với hơn 20 thợ có tay nghề cao được tuyển chọn trong cả nước, đây cũng là xưởng tranh đá quý đầu tiên ở Thái Nguyên.
Ngày Dũng khai trương cơ sở tranh đá quý Dũng Oanh, rất đông cán bộ các cấp lãnh đạo của tỉnh Thái Nguyên, thị xã Sông Công và bạn bè anh đến dự. Ai cũng mừng cho anh bởi nẻo thiện gập ghềnh nhưng không phải là không đi được đến đích - ngay cả một người đầy tai tiếng như Dũng.
Với tố chất thông minh, nhanh nhẹn, xởi lởi cùng với đội thợ có tay nghề cao nên chỉ sau gần 1 năm thành lập, cơ sở sản xuất tranh đá quý Dũng Oanh rất được ưa thích trên thị trường.
Tháng 11/2007, Dũng đã nâng cấp cơ sở sản xuất tranh đá quý của mình lên thành Công ty TNHH Tranh đá quý Dũng Tân với số vốn lớn, tạo công ăn việc làm cho gần 100 lao động.
Không chỉ làm giàu cho bản thân, anh còn cho những gia đình khó khăn trong vùng vay vốn làm ăn, tích cực tham gia những cuộc vận động quyên góp ở địa phương cho người có công với cách mạng, quỹ hiếu học... Hiện nay, Dũng còn nhận 2 cháu là con của phạm nhân ở trại giam Phú Sơn về nuôi.
Dũng nói khi chia tay tôi: "Cuộc đời tôi như như những đường uốn lượn trong hình parabol, lúc lên voi, lúc xuống chó nhưng chưa bao giờ tôi sống hèn. Bất kể điều gì, dù lương thiện hay bất lương, tôi đều đã gắng sức làm hết mình. Vấn đề không phải là sai lầm phạm pháp mà quan trọng hơn phải biết vượt qua sai lầm ấy như thế nào để đi cho đúng hướng, để không hổ thẹn với bản thân mình".
Theo Petrotimes