Những thử nghiệm y học thách thức trong lịch sử nhân loại
Trong hơn 2 thế kỷ qua, nhiều nhà khoa học đã chủ động tìm hiểu con đường lây nhiễm của nhiều căn bệnh khác nhau để rõ hơn về chúng.
Bài viết kịch tính dưới đây của nữ tác giả Theresa Machemer, bà là một nhà văn tự do sinh sống ở Washington DC. Những bài viết thuần túy của bà xuất hiện đều đặn trên tạp chí National Geographic và kênh video khoa học SciShow.
Hợp đồng làm tình nguyện viên
Trong Lời thề Hippocratic, các bác sĩ từng hứa rằng sẽ giữ cho bệnh nhân của họ tránh bị gây hại, nhưng việc cho ai đó tiếp xúc với một thứ bệnh gây chết người dường như đã cố tình đi ngược lại bản hợp đồng giao ước đó. Tuy nhiên, chính xác thì các bác sĩ đang thực hiện những nghiên cứu mang tính thách thức về cơ thể người.
Trong các nghiên cứu thử thách, các chuyên gia y tế sẽ có chủ đích để bệnh nhân phơi nhiễm với bệnh tật để từ đó họ có thể nghiên cứu về các phản ứng hệ miễn dịch và triệu chứng của bệnh nhân.
Những nghiên cứu như vậy cũng sẽ giúp các bác sĩ khám phá ra loại vaccine nào sẽ hoạt động để ngăn ngừa cơn đau. Trong chiều dài lịch sử có những thử nghiệm liên quan đến sức khỏe cá thể bệnh nhân, thường là tự nguyện song cũng có lúc rất khủng khiếp, nhiều người đã bị “hiến tế” vì kiến thức y học tại thời điểm đó.
Trong cuộc chạy đua sản xuất vaccine COVID-19, các nhà nghiên cứu lập kế hoạch về những thử nghiệm lâm sàng mang tính thách thức như thế, trong đó hãng Pfizer đã nhận được ủy quyền sản xuất vaccine cho vài quốc gia, còn hãng Moderna không bị tụt lại quá xa. Nhưng sự kết thúc của đại dịch không chỉ đến từ 2 hãng dược phẩm đột phá này.
Nhằm ngăn chặn hoàn toàn sự lây lan của COVID-19, nhiều cách thức điều trị và vaccine có thể là cần thiết nhằm chủng ngừa cho hàng tỷ người trên toàn cầu. Và một số chuyên gia cho rằng cách thức nhanh chóng nhất để thử nghiệm loại vaccine thế hệ thứ 2 đó là thông qua thử nghiệm lâm sàng.
Cao đẳng Hoàng gia London (ICL) đang bắt đầu một nghiên cứu thách thức con người có liên quan đến COVID-19 vào đầu tháng Giêng năm 2021. Trong suốt cuộc nghiên cứu, các nhà khoa học sẽ cho lây nhiễm virus Corona cho 100 tình nguyện viên trẻ, khỏe nhằm gây ra triệu chứng như thật với hy vọng đẩy nhanh việc tìm kiếm vaccine mới.
Y tá đang tiêm vaccine COVID-19 của hãng Pfizer-BioNTech cho một bệnh nhân ở London vào ngày 8 tháng 12 năm 2020.
Những người ủng hộ thử nghiệm thách thức COVID-19 trên người đã tạo nên sự tranh cãi khi cho rằng nếu thử nghiệm an toàn thì nó sẽ cung cấp một môi trường kiểm soát an toàn nhằm nghiên cứu các nhân tố khó làm sáng tỏ trong các thử nghiệm quy mô lớn Giai đoạn 3 với hàng ngàn người tham gia.
Các nhà phê bình nói rằng nghiên cứu thách thức không thật sự cần thiết vì sự thành công của vaccine còn khá mơ hồ, hoặc nên tạm dừng cho đến một ngày khi mọi thứ cảm thấy ổn hơn.
Những nhà phê bình cũng chỉ ra rằng an toàn là mối bận tâm ngay cả đối với các tình nguyện viên trẻ tuổi bởi vì các nhà khoa học còn không biết chữa trị COVID-19 sẽ ra sao, hoặc các tác động dài hạn là gì, cũng như bằng chứng đưa ra bởi Tổ chức Y tế thế giới (WHO) vào tháng 9 năm 2020 đã cho thấy rằng ít nhất 1/5 người trong độ tuổi từ 18 đến 34 tuổi có thể gặp phải những triệu chứng kéo dài.
Thử nghiệm thách thức con người cũng cũ như bản thân hoạt động tiêm chủng. Năm 1796, một bác sĩ mổ người Anh tên là Edward Jenner đã thử nghiệm loại vaccine đầu tiên trên thế giới bằng cách cho đứa con trai tròn 8 tuổi của người nhân viên làm vườn của ông tiếp xúc với bệnh đậu mùa.
Những thử nghiệm thách thức con người kể từ khi đó đã bắt đầu dùng để nghiên cứu những căn bệnh từ dịch tả đến ung thư, nhưng các nghiên cứu ban đầu thường đặt đối tượng tham gia vào nguy cơ gây hại trong khi họ lại không hiểu biết gì về bệnh.
Giờ đây, các nghiên cứu thách thức đã diễn ra một cách cẩn thận hơn dưới công tác đánh giá bởi một ban các chuyên gia trước khi họ bắt đầu. Yêu cầu của một cuộc nghiên cứu đạo đức là các tình nguyện viên buộc phải đưa ra sự đồng ý theo hiểu biết của họ, và phải hiểu rõ nguy cơ nếu tham gia. Quy trình chấp thuận đầu tiên đã được đưa ra hơn 1 thế kỷ kể từ sau cuộc nghiên cứu thách thức con người của Edward Jenner.
Vào năm 1898 khi Mỹ gây chiến với Tây Ban Nha ở Cuba, khi đó bệnh sốt rét vàng da (căn bệnh gây ra các triệu chứng hư gan, nôn mửa, sốt cao và xuất huyết) đã giết hại gấp 13 lần quân số so với số lượng thương bệnh binh.
Đến năm 1900, quân đội Mỹ đã thành lập một sứ mạng dẫn đầu bởi nhà Bệnh học Walter Reed nhằm hình dung cách thức lây bệnh của sốt vàng da cũng như dập tắt dịch như thế nào. Vì chỉ có con người mới phát bệnh này nên ông Reed và 3 đồng nghiệp khác đã thiết kế một nghiên cứu thách thức con người để tìm ra giả thuyết về nguồn cơn lây lan dịch sốt vàng da chính là do muỗi đốt.
Video đang HOT
Tranh của họa sĩ Dean Cornwell đặc tả cảnh sốt rét vàng da trong thử nghiệm thách thức con người của nhà Bệnh học Walter Reed.
Cuộc thử nghiệm chữa bệnh sốt vàng da
Hợp đồng đồng ý có đoạn viết: “Những người đã ký vào hợp đồng này phải hiểu rằng mình có khả năng sẽ phát bệnh sốt rét hoặc có thể nguy đến tính mạng và không thể nào tránh được việc bị nhiễm trùng trong thời gian thử nghiệm.
Tuy nhiên hãy tin một điều rằng Ủy ban sẽ có chế độ chăm sóc tận tình nhất và dịch vụ y tế nhiều kinh nghiệm nhất”. Đầu tiên, các nhà khoa học sẽ cho muỗi đốt trên cơ thể bệnh nhân để truyền vi khuẩn gây sốt vàng da lên người họ; bước thứ hai, họ sẽ để muỗi đến những tình nguyện viên khỏe mạnh và lại cho muỗi đốt họ.
Khi các tình nguyện viên đổ bệnh, ông Reed sẽ rà soát các mẫu máu để tìm vi khuẩn gây bệnh. Những người đổ bệnh sốt vàng da sẽ phải nghỉ ngơi tại giường và nhịn ăn hoàn toàn ngoại trừ được phép uống vài ngụm rượu sâm-banh và dùng một số loại thuốc. Các tình nguyện viên sẽ nhận 100 USD dưới dạng vàng nếu bị muỗi đốt, và nếu họ bệnh thì sẽ nhận thêm 100 USD nữa.
Trong vòng thử nghiệm đầu tiên, 11 người để cho muỗi đốt. 2 người ngã bệnh và sống sót. Người thứ 3 đổ bệnh là Jesse W. Lazear, là một trong những nhà khoa học điều hành dự án nghiên cứu. Ông bị muỗi đốt, đổ bệnh sốt vàng da và qua đời chỉ 12 ngày sau đó. Reed đã kết thúc thử nghiệm sau khi đồng nghiệp mất, còn Ủy ban đã lấy tên của Lazear để đặt cho một trạm vệ sinh nhằm vinh danh ông.
Năm 1901, ông Reed chỉ ra rằng muỗi đốt sẽ phát triển thành bệnh sốt rét vàng da ở người, đây cũng là lần đầu tiên loại virus gây bệnh cho người được phát hiện.
Bác sĩ quân y người Mỹ, William Gorgas và bác sĩ người gốc Cuba, Juan Guiteras đã thành lập một trạm nuôi cấy cho các thử thách con người mới ở Havana. Cũng trong năm 1901, hơn 20 tình nguyện viên đã ký vào hợp đồng đồng ý bao gồm duy nhất 1 phụ nữ tham gia vào nghiên cứu, nữ y tá quân y tên là Clara Maass.
Clara Maass bị muỗi đốt 5 lần mà không đổ bệnh, và nhận số tiền 100 USD để gửi về nhà cho mẹ và 9 người chị em ở New Jersey (số tiền lớn thời điểm đó nếu so với mức lương tháng 30 USD của cô). Nhưng đến khi bị muỗi đốt lần thứ 6 thì Maass qua đời. Cô và 2 tình nguyện viên khác bị nhiễm một chủng virus nguy hiểm mà các bác sĩ còn không biết trường hợp nhẹ của nó là gì. Cả 3 tình nguyện viên đều chết vào tháng 8 năm 1901.
Sự phản đối kịch liệt của công chúng ở Mỹ đã khiến các thí nghiệm ở Havana phải kết thúc. Bà Monica McArthur, bác sĩ nhi khoa và chuyên gia bệnh truyền nhiễm tại Trung tâm phát triển vaccine và sức khỏe toàn cầu thuộc Đại học Maryland, phát biểu: “Trong rất nhiều nghiên cứu thời kỳ đầu thì thí nghiệm của ông Walter Reed và những người khác đã sử dụng cái mà ngày hôm nay chúng ta gọi là “các nhóm dân số dễ bị tổn thương. Tôi lấy ví dụ như những tù nhân cũng có thể bị ghi danh vào các nghiên cứu”.
Các nhà khoa học đang lấy dịch của bệnh nhân người da màu mắc bệnh giang mai ở Tuskegee.
Ám ảnh từ thử nghiệm bệnh giang mai, viêm gan
Một minh họa điển hình cho nghiên cứu thách thức con người là Nghiên cứu về bệnh giang mai Tuskegee (TSS). Bắt đầu từ năm 1932, Cơ quan y tế công cộng Hoa Kỳ (PHS) đã tuyển 600 người đàn ông Mỹ gốc Phi có gia cảnh nghèo khổ sống ở Tuskegee (tiểu bang Alabama) để tham gia vào nghiên cứu rằng thế nào bệnh giang mai lại biến chứng nặng theo thời gian.
Khoảng 2/3 nam giới mắc giang mai, song các bác sĩ nghiên cứu lại cho rằng họ bị “máu xấu”. Những người nghèo khổ được thuyết phục tham gia nghiên cứu để đổi lại sẽ được ăn uống miễn phí, đi bệnh viện không tốn tiền và chữa bệnh “máu xấu” cùng các bệnh lý không liên quan khác.
Các nhà khoa học cũng cung cấp cho các tình nguyện viên một khoản tiền phí mai táng để lỡ như họ có bị chết. Chỉ khoảng một nửa số nam giới mắc giang mai được điều trị bằng… thạch tín và thủy ngân. Các bác sĩ trích máu và dịch tủy sống của người tham gia, sau khi họ chết vì giang mai, các bác sĩ lại tiến hành khảo nghiệm pháp y nhằm tìm thêm thông tin về diễn biến tự nhiên của bệnh.
Oái oăm là ngay trong thập niên 1940 khi cộng đồng biết được rằng Penicillin có thể trị được bệnh giang mai thì các tình nguyện viên vẫn không nhận được thuốc.
Năm 1972, nhà báo Jean Heller của Hãng tin AP đã mang TSS ra ánh sáng và quả quyết các bác sĩ đã lừa dối tình nguyện viên. Khi đó chỉ 74 tình nguyện viên mắc giang mai là còn sống sót. 3 tháng sau bài báo chấn động, công luận la ó buộc cuộc nghiên cứu phải chấm dứt.
Mặt khác, trong khi TSS là dựa trên người đã mắc bệnh thì có những nghiên cứu khác lại cho người đang khỏe mạnh nhiễm những căn bệnh tử thần. Từ năm 1955 đến năm 1970, một bác sĩ nhi khoa đã cho hơn 50 trẻ em mắc bệnh tâm thần phơi nhiễm với viêm gan nhằm xác định các chủng bệnh khác nhau để đi đến sản xuất vaccine.
Cuộc thử nghiệm diễn ra ở Trường công lập Willowbrook (Staten Island, New York). Nhà điều tra của cuộc nghiên cứu bệnh viêm gan là Saul Krugman đã đề nghị các bậc phụ huynh nếu có thể thì “cắt đứt” với con cái nhằm có cơ hội tìm ra bệnh và vaccine để chữa lành.
Các nghiên cứu tại trường Willowbrook đã kết thúc vào năm 1970 và hé lộ sự tồn tại của các chủng viêm gan A và B và đẩy nhanh việc phát triển ra vaccine viêm gan B. Một chuyện khác đáng phải kể đến đó là thầy thuốc gây tê Henry K. Beecher còn nhắc đến một nghiên cứu về bệnh Melanoma (một chứng ung thư da nguy hiểm) đã lây bệnh từ một phụ nữ sang mẹ của cô ấy “nhằm có được sự hiểu biết kỹ hơn về miễn dịch ung thư”.
Người phụ nữ đã chết trong cùng ngày mẹ cô được tiêm thuốc điều trị ung thư hắc tố và các bác sĩ biết rằng chứng ung thư rất nguy hiểm. Sau khi được tiêm, người mẹ cũng tạ thế 451 ngày sau đó.
Sau thập niên 1970, các nghiên cứu thách thức con người ít trở nên phổ biến do chúng gây “sốc” cho dư luận. Và Tuyên bố Helsinki đã thay đổi 7 lần để làm rõ các tiêu chuẩn đạo đức trong những thử nghiệm trên người, lần gần nhất là vào tháng 10 năm 2013.
Những cuộc thử nghiệm thuốc trên con người gây tranh cãi
Trong hơn hai thế kỷ, các nhà khoa học đã cố tình lây nhiễm cho bệnh nhân những căn bệnh nguy hiểm để tìm hiểu thêm.
Cuộc nghiên cứu thử nghiệm đầu tiên trên con người
Cuộc chạy đua phát triển vaccine ngừa COVID-19 đang trong giai đoạn nước rút, với vaccine của Pfizer đã được cấp phép ở một số quốc gia và Moderna không bị tụt lại xa. Nhưng sự kết thúc của đại dịch sẽ không chỉ đến từ 2 đột phá dược phẩm này.
Để ngăn chặn hoàn toàn sự lây lan của COVID-19, nhiều phương pháp điều trị và vaccine có thể cần thiết để tiêm chủng cho hàng tỷ người. Một số chuyên gia nói rằng cách nhanh nhất để kiểm tra các vaccine thế hệ thứ hai đó là thông qua các thử nghiệm trên người.
Những người ủng hộ thử nghiệm vaccine trên con người gây tranh cãi cho rằng nếu có thể được thực hiện một cách an toàn thì nó sẽ cung cấp một môi trường được kiểm soát độc đáo để nghiên cứu các yếu tố khó, làm sáng tỏ các thử nghiệm giai đoạn 3 quy mô lớn, với hàng nghìn người.
Các nhà phê bình cũng chỉ ra rằng, sự an toàn là một mối quan tâm ngay cả đối với các tình nguyện viên trẻ tuổi. Vì các nhà khoa học không biết cách điều trị COVID-19 hoặc tác dụng lâu dài của nó là gì. Và bằng chứng được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đưa ra vào tháng 9-2020 cho thấy, ít nhất 1/5 trong số những người từ 18 đến 34 tuổi mắc COVID-19 có các triệu chứng kéo dài.
Năm 1796, bác sĩ phẫu thuật người Anh Edward Jenner thử nghiệm loại vaccine đầu tiên trên thế giới.
Cuộc tranh luận về một thí nghiệm gây tranh cãi như vậy không có gì mới. Năm 1796, bác sĩ phẫu thuật người Anh Edward Jenner thử nghiệm loại vaccine đầu tiên trên thế giới bằng cách cho cậu con trai 8 tuổi của người làm vườn của mình mắc bệnh đậu mùa trên súc vật và sau đó là bệnh đậu mùa trên người.
Kể từ đó, các thử nghiệm trên người đã được sử dụng để nghiên cứu hàng chục loại bệnh từ bệnh tả đến ung thư, nhưng các nghiên cứu ban đầu thường đặt những người tham gia trực tiếp vào nguy hại, không phải lúc nào họ cũng biết. Ngày nay, mọi nghiên cứu thử nghiệm trên người đều được hội đồng chuyên gia xem xét cẩn thận trước khi bắt đầu.
Yêu cầu quan trọng của một nghiên cứu đạo đức là tình nguyện viên phải đưa ra sự đồng ý có hiểu biết, chứng minh rằng họ hiểu những rủi ro khi tham gia một nghiên cứu. Năm 1898, khi Mỹ gây chiến với Tây Ban Nha, bệnh sốt vàng da - có thể gây tổn thương gan, buồn nôn, sốt cao và xuất huyết - khiến binh lính thiệt mạng nhiều gấp 13 lần so với vết thương chiến tranh.
Vì vậy, vào năm 1900, quân đội Mỹ thành lập một ủy ban do nhà nghiên cứu bệnh học Walter Reed đứng đầu để tìm ra cách thức lây lan của bệnh sốt vàng da và cách ngăn chặn nó. Vì dường như chỉ có con người mới mắc bệnh, Reed và 3 đồng nghiệp trong ủy ban đã thiết kế một nghiên cứu thử nghiệm trên con người để kiểm tra lý thuyết hàng đầu về sự lây truyền bệnh sốt vàng: muỗi đốt.
Nhà nghiên cứu bệnh học Walter Reed.
Yêu cầu cho tình nguyện viên mắc căn bệnh chết người sẽ phải được cân nhắc với trách nhiệm giữ an toàn cho các tình nguyện viên. Để tuân thủ mệnh lệnh cấp trên với rủi ro vốn có của nghiên cứu, ủy ban đưa ra một giải pháp mới: soạn một hợp đồng để các tình nguyện viên ký, cam kết họ hiểu những rủi ro của nghiên cứu.
Trong quá trình thử nghiệm, các nhà khoa học đầu tiên cho phép muỗi đốt để truyền bệnh. Khi tình nguyện viên bị ốm, Reed rà soát các mẫu máu để tìm vi khuẩn gây bệnh. Chaves-Carballo cho biết những người bị sốt vàng da được chỉ định nghỉ ngơi tại giường và nhịn ăn hoàn toàn ngoại trừ "một vài ngụm Champagne" và một số loại thuốc giảm đau. Các tình nguyện viên nhận được một khoản thanh toán khổng lồ là 100 USD cho mỗi vết muỗi đốt, và 100 USD khác nếu họ bị ốm.
Trong vòng thử nghiệm đầu tiên, 11 tình nguyện viên bị muỗi đốt. Hai người ngã bệnh, và sống sót. Người đàn ông thứ ba bị ốm tên Jesse W. Lazear - một trong những nhà khoa học điều hành cuộc nghiên cứu - chết vì sốt vàng da 12 ngày sau đó. Mặc dù Reed đã cân nhắc việc kết thúc nghiên cứu sau cái chết của đồng nghiệp, nhưng thay vào đó, ủy ban đã đặt tên một trạm vệ sinh là Camp Lazear để vinh danh ông. Và đến năm 1901, Reed và ủy ban ra tuyên bố - thông qua thí nghiệm muỗi đốt - côn trùng truyền bệnh sốt vàng da. Việc cấy thêm các mẫu máu đã lọc của bệnh nhân sốt vàng da vào những người tình nguyện khác cho thấy một loại virus gây bệnh đầu tiên được phát hiện ở người.
Nghiên cứu chế tạo vaccine
Khi đã xác định được thủ phạm gây bệnh, Reed trở lại Đại học George Washington (sau đó là Đại học Colombia) để giảng dạy, còn các nhà khoa học khác bắt tay vào nghiên cứu chế tạo vaccine sốt vàng da. Bác sĩ quân đội Mỹ William Gorgas và bác sĩ gốc Cuba Juan Guiteras thành lập một trạm cấy cho một vòng nghiên cứu thử nghiệm trên con người ở Havana. Họ hy vọng có thể học cách gây ra các trường hợp sốt vàng da nhẹ do muỗi đốt để mang lại khả năng miễn dịch cho mọi người.
Hơn 20 tình nguyện viên đăng ký tiêm chủng thử nghiệm đầu tiên vào năm 1901, trong đó có người phụ nữ duy nhất tham gia nghiên cứu - một y tá quân đội tên là Clara Maass. Maass bị muỗi đốt 5 lần mà không phát bệnh sốt vàng da, và nhận được 100 USD để gửi về nhà cho mẹ và 9 anh chị em ở New Jersey - một số tiền lớn so với mức lương hàng tháng của cô là 30 USD. Vết muỗi đốt thứ 6 của cô đã gây tử vong. Cô và hai tình nguyện viên khác đã bị nhiễm một chủng virus đặc biệt hung bạo và cả 3 đều chết vào tháng 8-1901.
Một bức tranh của Dean Cornwell thể hiện cuộc thử nghiệm cấy truyền bệnh sốt vàng da được thực hiện trước sự chứng kiến của Walter Reed.
Sự phản đối kịch liệt của công chúng ở Mỹ đã chấm dứt thí nghiệm ở Havana. Monica McArthur, bác sĩ nhi khoa và chuyên gia bệnh truyền nhiễm tại Đại học Trung tâm Phát triển Vaccine và Sức khỏe Toàn cầu của Trường Y Maryland, cho biết: "Trong rất nhiều nghiên cứu ban đầu, thí nghiệm của Walter Reed và các nghiên cứu khác, đã sử dụng những gì chúng ta coi là những quần thể dễ bị tổn thương - những người không thể tự do đồng ý tham gia hoặc đưa ra quyết định đầy đủ thông tin. Ví dụ, các tù nhân có thể được ghi danh vào các nghiên cứu".
Một ví dụ điển hình về nghiên cứu thử nghiệm dựa trên một nhóm dân số dễ bị tổn thương là nghiên cứu bệnh giang mai Tuskegee. Bắt đầu từ năm 1932, Dịch vụ Y tế Công cộng Mỹ (USPHS) tuyển dụng khoảng 600 người đàn ông Mỹ gốc Phi nghèo từ xung quanh Tuskegee, Alabama để nghiên cứu về mức độ xấu đi của bệnh giang mai theo thời gian. Khoảng 2/3 nam giới mắc bệnh giang mai, nhưng các bác sĩ nghiên cứu cho biết họ bị "máu xấu".
Sau khi nhận được chẩn đoán rởm này, những người đàn ông đã được thuyết phục tham gia nghiên cứu để đổi lấy bữa ăn miễn phí, được vào bệnh viện điều trị chứng "máu xấu" và các bệnh lý không liên quan khác. Các nhà khoa học cũng cung cấp cho những người tham gia một khoản phụ cấp mai táng sẽ được trả cho những người sống sót sau khi họ qua đời.
Chỉ có khoảng một nửa số nam giới mắc bệnh giang mai vào những năm 1930 được điều trị bằng các liều arsen và thủy ngân độc hại. Các bác sĩ lấy máu và khám nghiệm tử thi sau khi những bệnh nhân này chết vì bệnh giang mai để tìm kiếm thêm thông tin về diễn biến tự nhiên của bệnh. Nghiên cứu kéo dài hàng thập niên và ngay cả sau khi cộng đồng y tế xác định rằng penicillin có thể chữa khỏi bệnh vào những năm 1940, những người đàn ông vẫn không nhận được thuốc.
Năm 1972, nhà báo Jean Heller của hãng tin Associated Press đưa nghiên cứu về bệnh giang mai Tuskegee ra ánh sáng và chia sẻ cách các bác sĩ tham gia nghiên cứu đã lừa dối những người đàn ông tham gia. Đến thời điểm đó, chỉ có 74 người đàn ông mắc bệnh giang mai vẫn sống sót. Sự phẫn nộ của công chúng dẫn đến quyết định hủy bỏ nghiên cứu vào 3 tháng sau báo cáo.
Trong khi nghiên cứu bệnh giang mai Tuskegee dựa trên những người tham gia đã bị bệnh, các nghiên cứu khác cho thấy những người khỏe mạnh mắc các bệnh chết người. Ví dụ, từ năm 1955 đến năm 1970, bác sĩ nhi khoa Saul Krugman cho hơn 50 trẻ em khuyết tật tâm thần mắc bệnh viêm gan để xác định các chủng khác nhau của bệnh và cuối cùng phát triển vaccine. Cuộc thử nghiệm diễn ra tại Trường tiểu học bang Willowbrook, một ngôi nhà dành cho trẻ em và người lớn bị khuyết tật ở đảo Staten, New York.
Nghiên cứu của Willowbrook, kết thúc vào năm 1970, tiết lộ sự tồn tại của các chủng virus gây viêm gan A và B và thúc đẩy sự phát triển của vaccine viêm gan B. Nhưng các nghiên cứu vẫn tiến triển ngay cả khi một số người trong cộng đồng y tế chỉ trích phương pháp của Krugman. Năm 1966, bác sĩ gây mê Henry K. Beecher xuất bản một bài luận mang tính bước ngoặt nêu chi tiết 22 ví dụ về nghiên cứu phi đạo đức diễn ra trên người - bao gồm các nghiên cứu về bệnh viêm gan - nhằm nâng cao nhận thức và chấm dứt các thực hành phi đạo đức vẫn tiếp diễn mặc dù đã tạo ra các hướng dẫn quốc tế về thử nghiệm trên người - đó là Bộ luật Nuremberg năm 1947 và Tuyên bố Helsinki năm 1964.
Ngoài nghiên cứu Willowbrook, Beecher còn nhấn mạnh một nghiên cứu trong đó khối u ác tính - một dạng ung thư da nghiêm trọng - được chuyển từ một phụ nữ sang mẹ cô ấy "với hy vọng hiểu rõ hơn một chút về khả năng miễn dịch ung thư". Người phụ nữ qua đời cùng ngày mẹ cô được tiêm thuốc điều trị ung thư hắc tố nên các bác sĩ biết rằng căn bệnh ung thư gây chết người.
Kiểm soát chặt chẽ các nghiên cứu thử nghiệm trên người
Các nghiên cứu thử nghiệm con người trở nên ít phổ biến hơn sau thập niên 1970 sau kết luận về các nghiên cứu phi đạo đức gây chấn động dư luận. Kể từ đó, Tuyên bố Helsinki được sửa đổi 7 lần để làm rõ các tiêu chuẩn đạo đức đối với các thí nghiệm trên người - gần đây nhất là vào tháng 10-2013. Tuyên bố hiện tại nói rằng "Mặc dù mục đích chính của nghiên cứu y học là tạo ra kiến thức mới, nhưng mục tiêu này không bao giờ có thể được ưu tiên hơn quyền và lợi ích của cá nhân đối tượng nghiên cứu".
Đại học Maryland sử dụng các nghiên cứu thử nghiệm trên người vào năm 2012 và 2013 để phát triển một loại vaccine phòng bệnh tả được FDA chấp thuận vào năm 2016. Các tình nguyện viên có thể đặt câu hỏi và tìm kiếm sự hướng dẫn từ bên ngoài, đồng thời phải vượt qua bài đánh giá do các nhà nghiên cứu soạn thảo để chứng minh rằng họ hiểu những rủi ro của một nghiên cứu.
Theo một tuyên bố của Đại học Hoàng gia London, vẫn cần có kế hoạch thử nghiệm được các cơ quan quản lý chính phủ phê duyệt trước khi các nhà nghiên cứu có thể bắt đầu tuyển dụng người tham gia, an toàn của tình nguyện viên là ưu tiên số một. COVID-19 khác với các bệnh nghiên cứu thử nghiệm khác: cộng đồng nhà khoa học đã nghiên cứu nó trong vòng chưa đầy một năm, các bác sĩ không có phương pháp điều trị nào được chấp thuận để can thiệp nếu bệnh của một tình nguyện viên trở nên nghiêm trọng và bằng chứng ban đầu cho thấy COVID-19 có thể gây ra các tác động lâu dài thậm chí ở những người trẻ tuổi, trước đây khỏe mạnh.
Nghiên cứu của Đại học Hoàng gia London nhằm mục đích đầu tiên là xác định liều lượng virus tối thiểu cần thiết để gây bệnh. Nghiên cứu sẽ sử dụng liều lượng virus đó để nghiên cứu cách vaccine hoạt động trong cơ thể để ngăn chặn COVID-19, xem xét các phương pháp điều trị tiềm năng và nghiên cứu phản ứng miễn dịch. Cộng đồng y sinh vẫn còn chia rẽ về việc liệu một nghiên cứu như vậy có nên được thực hiện hay không, với tất cả những điều chưa biết xung quanh COVID-19.
Thủ tướng: Cần phương thức phù hợp thúc đẩy thử nghiệm vaccine ngừa COVID-19 Chiều 21/12, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc chủ trì cuộc họp Thường trực Chính phủ về các phương án nghiên cứu, sản xuất, mua vaccine phòng COVID-19. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu. Ảnh: Thống Nhất/TTXVN Phát biểu chỉ đạo tại cuộc họp, Thủ tướng Chính phủ nêu rõ, trong giai đoạn hiện nay, cả...