Những số phận nghiệt ngã ở “làng góa phụ”
Cái tên ấp 7 có một thời được thay thế bằng cụm từ “làng góa phụ”. Vì ở làng biển này, sau chuyến đi biển định mệnh cách đây hơn 10 năm, hàng trăm người chồng, người cha đã không trở về.
Mãi cho đến bây giờ, lâu lâu người ta lại bắt gặp hình ảnh của những người vợ, người mẹ ở ấp 7, xã Khánh Hội, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau lần mò ra cửa biển Khánh Hội đứng đợi chồng, đợi con đến chiều tối, rồi họ lại thơ thẩn trở về trong niềm đau tuyệt vọng.
Cái tên ấp 7 có một thời được thay thế bằng cụm từ “làng góa phụ”. Vì ở làng biển này, sau chuyến đi biển định mệnh cách đây hơn 10 năm, hàng trăm người chồng, người cha đã không trở về. Những người phụ nữ trở thành trụ cột của gia đình, họ thay chồng nuôi con.
Thay chồng nuôi con
Con đường về làng biển Khánh Hội vốn đã chông chênh, khó đi… vậy mà đường dẫn vào “làng góa phụ” lại càng khó đi và chông chênh hơn gấp nhiều lần. Từ TP Cà Mau phải chạy hơn 50km đường xe, chúng tôi mới đến được xã Khánh Hội, huyện U Minh. Theo chỉ dẫn của người dân bản xứ, để vào ấp 7, chúng tôi phải gởi xe tại một điểm giữ xe cách cửa biển Khánh Hội khoảng 6 km, rồi thuê đò (loại phương tiện để người dân vùng sông nước đi lại trên sông – PV) chở đi mới vào được.
Chồng mất tích khi đi biển, chị Dung phải gạt nước mắt gượng dậy nuôi con.
Đến bến đò tại đầu kinh ấp 7, chúng tôi được chị Trang (Nguyễn Thị Trang, SN 1982), chủ phương tiện đò dọc nhận lời đưa đi. Nghe chúng tôi nói muốn đến những gia đình có chồng bị chết trong cơn bão số 5, chị Trang bảo: “Tưởng đi đâu thì khó, chứ mấy anh muốn gặp các chị được mệnh danh là “hòn vọng phu” trong ấp này thì dễ ẹc. Chỉ sợ các anh không đủ tiền trả công cho tui thôi, chứ ở làng biển này tui chở các anh đi gặp những gia đình ấy đến chiều còn chưa hết nữa là”.
Theo lời chị Trang, sau cơn bão số 5 (tháng 10/1997), chỉ riêng ở ấp 7 thì đã có hàng trăm gia đình phải đội khăn tang khóc chồng, nhiều đứa con còn chưa kịp biết mặt cha. Những người phụ nữ sau nhiều tháng ra biển đón chồng, họ lại trở về làm đám ma cho chồng mà trong quan tài trống rỗng. Do không tìm thấy xác chồng, nên một số chị em đành mang những chiếc áo quần cũ kỹ của chồng còn vướng lại mùi nắng biển bỏ vào trong quan tài đem chôn. Có những gia đình nghèo đến mức không có tiền để rửa một tắm di ảnh lớn của chồng để lên bàn thờ…
Trên đường vào ấp 7, tôi hỏi đùa với chị Trang, chồng chị đâu mà không đi chạy đò để chị làm cực vậy? Vừa lái vỏ máy, chị Trang trả lời tỉnh queo: “Ông xã tui là người may mắn thoát chết trong cơn bão năm đó. Sau khi trở về chưa kịp hoàn hồn, ổng nói sẽ nghỉ đi biển vì không muốn xa mẹ con tui. Vậy mà gần một năm sau, ông ấy lại trở chứng đòi đi biển vì ở nhà tù túng quá ổng chịu không nổi. Tui nhất quyết không cho, ổng nói nếu không cho ổng ra biển thì phải nuôi ổng, tui gật đầu liền. Thế là từ đó, tui thay ổng kiếm tiền bằng nghề chạy đò, còn phần ổng thì lo cơm nước, chăm sóc cho mấy đứa con đi học…”.
Nghề chạy đò của chị Trang được xem là nghề “sướng” nhất so với các chị em phụ nữ khác ở đây. Sau một ngày đổ mồ hôi lái vỏ máy người phụ nữ này đôi khi kiếm được gần cả trăm ngàn đồng. Tuy nhiên có ngày cũng phải bỏ công không vì không có khách đi. Công việc nói là “sướng” nhưng cũng không kém phần vất vả. Nhìn dáng vẻ nhỏ nhắn, gầy gò của người phụ nữ này mà phải “ròng mình” lấy sức điều khiển chiếc vỏ chạy băng băng trên sông khiến chúng tôi vô cùng nể phục.
Chiếc vỏ máy cũ kỹ của chị Trang đưa chúng tôi đến nhà chị Lê Thị Mỹ Dung là vợ anh Võ Minh Thành chết trong cơn bão số 5, đến nay vẫn chưa tìm thấy xác. Ngồi tiếp chuyện với chúng tôi, người phụ nữ chỉ mới bước qua cái tuổi 35, nhưng trông già hơn rất nhiều so với độ tuổi của chị. Nét mặt khắc khổ, làng da cháy xám của chị Dung giúp chúng tôi hiểu được phần nào nỗi cơ cực của những người vợ thay chồng nuôi con ở làng biển Khánh Hội.
Video đang HOT
Nói về người chồng xấu số của mình, chị Dung mắt đỏ hoe kể: Chồng chị, anh Thành, là người miền Trung. Cách đây hơn 10 năm, anh Thành vào cửa biển Khánh Hội đi ghe thuê, khi ấy chị mới hơn 20 tuổi cũng làm thuê cho các chủ ghe ở cửa biển Khánh Hội. Cuộc sống nghèo khổ của hai mảnh đời khiến chị và anh Thành ngày càng thấu hiểu và yêu thương nhau hơn. Anh chị quyết định về sống chung với nhau, ngày cưới chỉ đơn giản có mâm cơm cúng ông bà, vài ba người khách là bạn đi biển của anh Thành đến uống rượu chúc mừng. Sau ngày cưới, anh chị được người dân địa phương cho mượn miếng đất cất nhà để ở. Anh Thành đi biển, chị ở nhà làm thuê, ai thuê đâu làm đó…
Ngày biết vợ có thai, anh Thành chạy qua nhà bà Sáu khoe mình sắp được làm cha. Chiều 22/9/1997, anh Thành cùng vợ cuốc đất đám mạ thuê thì mấy người bạn của anh Thành đến gọi ảnh đi biển. “Khi đó, tui có linh tính không tốt nên kêu ảnh ở nhà cùng tui cuốc đất được rồi, đừng ra biển. Ảnh nói với tui, cuốc đất không được bao nhiêu, tiền ăn còn không đủ lấy tiền đâu cho tui sinh con. Ảnh còn nói để đi chuyến biển này về, có tiền ảnh sẽ mua cái mùng mới để sinh con ra khỏi phải ngủ mùng cũ vì sợ muỗi cắn con… Vậy mà!”, lời chị Dung bặt đi trong tiếng nấc nghẹn ngào.
Những đứa trẻ xóm biển vô tư vui đùa sau giờ tan học.
Bà Sáu Thu, hàng xóm của chị Dung, nói: “Thằng Thành mới ra biển chưa đầy nửa tháng thì bão đến. Khoảng 2 giờ chiều ngày 3/10/1997, gió bắt đầu thổi mạnh. Tui chạy qua nhà kêu con Dung sang nhà tui ở cho đỡ sợ, nó mới qua đến nhà thì nghe tiếng ầm sau lưng, quay đầu nhìn lại thì thấy cả căn nhà của nó đổ sập. Tội cho con nhỏ, bụng mang dạ chửa mà phải sống một mình trong bão. Tội hơn là khi nó biết chồng chết ngoài biển, mấy tháng sau đó nó không màng gì tới nhà cửa. Ngày nào nó cũng lội bộ ra cửa biển Khánh Hội (cách xa gần 7 km) để đợi chồng, vì nó không tin chồng nó đã chết”.
Mấy tháng sau bão, rất nhiều bà con trong xóm đến động viên, an ủi chị Dung. Rồi người cho lá, người cho cây, dân làng cùng nhau dựng lại căn nhà đã sập trong bão cho chị có chỗ che mưa, che nắng. “Tui đã từng nghĩ đến cái chết, nhưng tui không làm được vì còn đứa con trong bụng, là giọt máu cuối cùng của anh Thành. Nghĩ vậy tui cố gắng đứng dậy để sống, lao vào công việc cả ngày lẫn đêm để quên những nỗi buồn mà biển mang đến và để có tiền sinh con”, chị Dung trầm tư.
Cuộc sống nghèo khổ, không mảnh đất “cắm dùi” đã khiến cuộc sống của mẹ con chị Dung trong nhiều năm qua càng trở nên túng quẫn. Hàng ngày chị phải tiếp tục công việc làm thuê, ngày cũng kiếm được 30-50 ngàn đồng. Con chị Dung với anh Thành là cháu Võ Minh Hoàng, năm nay đã 14 tuổi. Tuy không biết một chữ bẻ đôi, nhưng Hoàng rất biết nghĩ. Không muốn nhìn thấy mẹ làm lụng cực khổ, Hoàng xin mẹ được đi biển từ năm 11 tuổi. Chị Nhung nhớ lại: “Nghe nó xin đi biển, tui đã khóc và nói với nó dù có ‘cạp đất ăn’ cũng không cho nó đi biển. Tui sợ biển cả sẽ mang nó đi mãi giống như cha của nó ngày trước. Nhưng nó đã trốn đi, hơn 2 tháng sau, khi nó ra biển trở về, hai mẹ con ôm nhau khóc. Nó nói, cho nó đi biển để có tiền phụ mẹ, nó sẽ không sao vì có cha của nó ngoài biển phù hộ”.
Ở ấp 7, xã Khánh Hội còn rất nhiều hoàng cảnh bi thương. Trường hợp của chị Trần Thị Lan, chị Nguyễn Kiều Thương… cũng là những người vợ thay chồng nuôi con. Chồng chị là anh Nguyễn Văn Út cũng mất trong chuyến biển định mệnh năm đó. “Ngày ảnh đi biển, tui đang mang thai đứa con đầu lòng. Tui như chết đi khi hay tin ảnh đã mất tích ngoài biển. Tui sinh con ra trong những ngày tháng đau khổ, buồn tủi ấy. Dù đã hơn 10 năm trôi qua, nhưng mẹ con tui luôn hy vọng và mong đợi một ngày nào đó ảnh sẽ trở về”, chị Thương nói.
Bà Trần Thị Lánh, mẹ ruột của chị Thương cho biết, anh Út mất tích ngoài biển vào tháng 10/1997, thì chỉ hai tháng sau chị Thương sinh con. Đứa con của chị Thương và anh Út được đặt tên Nguyễn Bão Biển, như là một lời ghi nhớ về người chồng bạc số của mình. Để có tiền nuôi con lớn và lo cho con ăn học, người mẹ này phải lao vào công việc, với nhiều nghề khác nhau. Có khi là lựa cá, có lúc là vá lưới… Thời gian gần đây chị phải gởi con lại cho ngoại để lên Sài Gòn ở mướn với đồng lương ít ỏi. Số tiền ấy, ngoài việc ăn uống, chi tiêu, chị lại gởi một phần về quê lo cho hai bà cháu.
Những đứa con không biết mặt cha
Ở làng biển này, có những đứa trẻ được sinh ra không có cơ hội để một lần được nhìn thấy mặt cha. Cháu Võ Minh Hoàng, con trai của chị Dung tâm sự: “Mẹ rất thương con, sau mỗi chuyến con ra biển trở về mẹ lại ôm con vào lòng, xoa đầu rồi bảo con giống cha. Nhưng con không hình dung ra được cha con như thế nào, mặc dù mẹ kể cho con nghe rất nhiều về cha. Con chỉ tiếc một điều, phải chi ngày xưa nhà con có tiền thì ít ra con cha cũng để lại cho con tấm hình để con biết mặt”.
Có phần may mắn hơn cháu Hoàng, cháu Nguyễn Bão Biển có điều kiện hơn chút ít. Sau ngày cha chết, mẹ con cháu được bên ngoại rước về nuôi, dù không giàu có gì nhưng bà Lánh và chị Thương quyết tâm cho cho con cháu mình ăn học để mai này khi lớn lên nó có thể tìm được việc làm không phải đi biển như cha. Trả lời câu hỏi của tôi, cháu có thương và nhớ cha không?, Bão Biển đáp: “Cháu thương mẹ nhiều, cũng thương cha nữa. Dù không thấy mặt cha, những những tấm hình mà cha để lại là tài sản vô giá đối với mẹ con cháu”.
Ở ấp 7, đàn ông, trai tráng đa phần đều làm nghề biển. Dân làng biển, sống nhờ vào biển, đôi khi biển mang đến cho người dân miếng cơm, manh áo… nhưng có những lúc biển nổi cơn thịnh nộ đã cướp đi nhiều sinh mạng của người dân nơi đây.
Theo Hoàng Hạnh (Dân Việt/Dòng Đời)
Vùng biển lắm tai ương
Để có những chuyến tàu, thuyền cập bến với cá nặng lưới đầy, người dân miền biển, nhất là người phụ nữ, không ít lần phải ngậm đắng nuốt cay mỗi khi đại dương nổi trận cuồng phong.
Xã Ngư Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa nằm quay mặt ra phía biển. Đất chật người đông lại không có đất nông nghiệp nên đi biển là nghề chính. Biển đã nuôi sống bao thế hệ con người của mảnh đất này nhưng cũng đã lấy đi không ít máu và nước mắt.
Kinh hoàng bão, lốc
Nhắc lại cơn bão năm Tân Mùi 1931, giọng ông Trần Văn Hạnh trầm buồn: "Đã là người con của Diêm Phố (tên trước đây của xã Ngư Lộc), không ai quên được cơn bão năm đó. Một trận bão lớn và đến bất ngờ đã nhấn chìm hầu như toàn bộ thuyền bè đánh bắt ngoài khơi và cướp đi vĩnh viễn 344 người con của Ngư Lộc".
Chồng mất, một mình nuôi 8 đứa con cùng nợ nần chồng chất khiến bà Nguyễn Thị Sao sống trong tủi cực. Ảnh: Đức Ngọc
65 năm sau, người dân huyện Hậu Lộc lại đón nhận một trận cuồng phong khác, cướp đi sinh mạng 121 người, trong đó Ngư Lộc có hơn 60 người. Theo ông Nguyễn Ngọc Đa - Trưởng thôn Thắng Tây, xã Ngư Lộc - năm nào cũng vậy, dù trời yên biển lặng, Ngư Lộc cũng có ít nhất vài ngư dân đi mãi không về.
Cũng chứng kiến nhiều thảm kịch không kém là 2 ngôi làng lốc ở tỉnh Nghệ An. Sở dĩ gọi là làng lốc vì hàng chục ngư dân của làng này đã phải bỏ mạng trong những trận lốc xoáy kinh hoàng quét qua biển. Làng lốc Trung Mỹ thuộc xã Diễn Hải, huyện Diễn Châu, 30 năm về trước có tổng cộng 51 người đàn ông thiệt mạng. Còn làng lốc Tân Lập thuộc xã Nghi Quang, huyện Nghi Lộc thì có 36 ngư dân bị lốc cuốn chết cách nay hơn 20 năm.
Rồi không chỉ vì giông lốc, những cuộc mưu sinh trên biển luôn bấp bênh theo con nước và mang nhiều hiểm họa khó lường. Hầu như năm nào ở đây cũng có vài người nằm lại với biển.
Sau một đêm bỗng thành góa phụ
"Lấy chồng nghề ruộng em theo. Lấy chồng nghề biển hồn treo cột buồm".
Đó là câu ca dao mà bất cứ người phụ nữ nào sinh ra, lớn lên trên dải đất ven biển miền Trung cũng thuộc nằm lòng. Bởi lẽ, lấy chồng nghề biển, có khi sau một đêm đã trở thành góa phụ. Tính từ năm 1996 đến nay, xã Ngư Lộc có tới 142 phụ nữ góa chồng, cuộc sống của họ vô cùng vất vả.
Bà Đồng Thị Quyên đau buồn khi nhắc về người chồng vắn số. Ảnh: Tuấn Minh
Ghé thăm nhà bà Đồng Thị Quyên (50 tuổi, ở thôn Thắng Tây), có chồng tử nạn cùng 8 người khác trong vụ đắm tàu vào tháng 9-2010, nhắc chuyện cũ, bà òa khóc: "Thoát chết trong trận lốc năm 1996, về nhà ông ấy hứa sẽ không bao giờ đi biển nữa. Thế rồi thằng cháu có tàu mới rủ ông ấy đi và từ đó không về nữa. Cũng vì miếng cơm manh áo mà thôi...".
Lau nước mắt, bà Quyên cho biết số phận hẩm hiu không chỉ gọi tên bà. Ở mảnh đất ven biển này, số phụ nữ có chồng bỏ mạng khi đi biển nhiều không kể hết. Có người cưới nhau nằm chưa ấm gối thì chồng đã vĩnh viễn không về, có người chồng chết khi con còn đỏ hỏn.
Còn ở 2 làng lốc của Nghệ An, số phụ nữ góa chồng cũng lên đến hàng trăm. Riêng trong 2 trận lốc thì có đến khoảng 50 người. Hiện nay, thỉnh thoảng người ta vẫn thấy cảnh những người đàn bà nằm gào thét vật vã trên bãi biển khi chồng, con đi biển không về. Dù mỗi người một số phận nhưng đa số những người phụ nữ đó vẫn không đi bước nữa mà ở vậy nuôi con.
Chồng chết trong một vụ đắm thuyền vào tháng 6/2011, bà Nguyễn Thị Sao (SN 1962, ngụ xóm Tân Lập) phải một mình nuôi 8 đứa con và lo trả món nợ 100 triệu đồng vay mượn để đóng thuyền. "Mất chồng, mất cả thuyền khiến gia đình tôi rơi vào cảnh túng quẫn. Có lúc tuyệt vọng, tôi đã nghĩ đến cái chết nhưng nghĩ đến mấy đứa con nên gắng gượng" - bà Sao xót xa.
Bà Đậu Thị Hoa ở xóm Trung Mỹ, có chồng chết vì gặp lốc khi đi biển, cho biết: "16 tuổi mất cha, 26 tuổi thì mất chồng. Lúc anh ấy mất, tôi nghĩ mình không thể sống được vì lấy gì để nuôi mẹ già và 4 con nhỏ. Tôi làm đủ thứ nghề để sống, có nhiều người đến hỏi cưới nhưng vì thương con nên tôi quyết định ở vậy, giờ 4 đứa đều khôn lớn cả".
Mồ côi từ tấm bé
Cùng với những người phụ nữ mất chồng là nhiều đứa trẻ mất cha. Thương nhất là những cháu bé phải chịu cảnh mồ côi từ ngay khi còn trong bụng mẹ. Chị Dương Thị Thu An (21 tuổi, ngụ xã An Hải, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) mới mang thai được 7 tháng thì chồng là Nguyễn Văn Cường (25 tuổi) đi Hoàng Sa lặn biển và bỏ mình ở đó. Nuốt nước mắt vào lòng, chị An mang nặng đẻ đau một mình. Giờ bé Nguyễn Duy Khang, con trai chị, đã biết đi chập chững.
Cùng hoàn cảnh là bé Nguyễn Thị Bích Vy (5 tuổi, ngụ xã An Hải). Lúc Vy mới tượng hình trong bụng mẹ được 2 tháng thì cha cháu chết ngạt dưới biển khi đang lặn bắt hải sâm ở Hoàng Sa. Ngày anh Thành mất đã để lại cho chị Hạnh số nợ 20 triệu đồng. Tính đến nay đã 5 năm, dù đã làm việc cật lực nhưng chị Hạnh chỉ đủ tiền nuôi con chứ chưa trả hết được nợ.
3 năm, 46 người bỏ mạng ngoài khơi Theo báo cáo từ Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Thanh Hóa, tính từ năm 2011 đến tháng 10/2013, toàn tỉnh Thanh Hóa xảy ra 88 vụ tai nạn trên biển khiến 46 người chết, 56 người bị thương, 56 tàu thuyền bị chìm, thiệt hại gần 20 tỉ đồng. Các vụ trên xảy ra ở 6 huyện, thị ven biển nhưng nhiều nhất là 2 huyện Hậu Lộc và Tĩnh Gia. Hiện toàn tỉnh Thanh Hóa có 5.866 tàu thuyền với 28.533 lao động. Tàu cá ở đây vẫn còn rất lạc hậu, công suất nhỏ; số tàu cá 1.000 CV trở lên chỉ đếm trên đầu ngón tay. T.Minh
Theo Tuấn Minh - Đức Ngọc - Tử Trực
Làng có 142 góa phụ: Tang thương đất biển Năm đó, cả xã Ngư Lộc đổ xô ra nhận xác người thân, trong đó có tôi. Người chết thì nằm la liệt, chẳng biết nhận dạng thế nào. Cả 3 mẹ con vẫn tin rằng bố nó còn sống, nhưng khi nhìn thấy xác thì tôi ngất đi... Đất biển tang thương ngày ấy... Cách thành phố Thanh Hóa khoảng 50km về...