Những người “ươm mầm” tương lai của Nậm Chà
Cách Hà Nội hơn 500km, xã Nậm Chà là một trong những xã vùng cao khó khăn nhất của huyện Nậm Nhùn (Lai Châu), đặc biệt là những khó khăn đối với giáo viên và học sinh trên hành trình “đuổi” theo con chữ cho tương lai tươi sáng…
Trăn trở Nậm Chà
Trường Phổ thông Dân tộc bán trú (PTDTBT) Tiểu học Nậm Chà nằm bên bờ con suối lớn với một cây cầu tạm bắc qua. Đây là cây cầu tạm thứ 3 được bắc lên với những thân gỗ đeo đá nặng làm trụ đỡ, học sinh chạy qua là khẽ rung lên. Mặt cầu đan kết bằng nứa, tre ọp ẹp.
Học sinh nơi đây chủ yếu thuộc các dân tộc: Cống, Dao, H’Mông. Ở đây, phụ nữ đa phần không biết nói tiếng phổ thông, nên các thầy cô thuyết phục cho trẻ đến trường không hề dễ. Và để dạy cho trẻ, các thầy cô giáo từ dưới xuôi lên phải học tiếng của trẻ – tiếng Mông, tiếng Dao… rồi mới dạy được tiếng Kinh.
Các học sinh Trường PTDTBT Nậm Chà nghe cô giáo ở Hà Nội dạy các câu chào bằng tiếng Anh
Là một người con của Lai Châu đến từ huyện Mường Mô, đến công tác và gắn bó với Nậm Chà từ năm 2010, thầy Lò Văn Lượng hiện đang là giáo viên thể dục và phụ trách công tác Đội ở trường.
Thầy Lượng vừa dẫn đoàn đi thăm khu nội trú, vừa bày tỏ: “Không chỉ gặp khó khăn bởi địa hình, địa bàn xã hiểm trở, trường còn phải đối mặt với những khó khăn do cơ sở vật chất thiếu thốn, buộc các em phải chơi đùa với những trò nguy hiểm và kém vệ sinh. Các em thường chơi với phế liệu trên bãi rác ngay cổng trường sát lòng suối, leo trèo lên cột và trượt xuống, chơi bi trên nền đất bẩn, hoặc tụm lại bắt chấy cho nhau. Sân chơi lý tưởng nhất có lẽ là chiếc xích đu cũ với 2 chiếc lốp ô-tô lớn trong sân khu nội trú”.
Thầy Phạm Văn Ninh (Phó Hiệu trưởng, quê Hải Dương) cho biết: “Bên cạnh những thiếu thốn về cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy, học tập và chăm sóc các em ở nội trú, thì một trở ngại lớn trong học tập tại các trường ở Nậm Chà là vấn đề về sách giáo khoa, đặc biệt ở các trường cấp 2 và cấp 3.
Phần lớn là từ 6-8 em chung nhau một quyển. Vì thiếu thốn phương tiện học tập nên vấn đề chất lượng đào tạo luôn là bài toán nan giải với cả thầy và trò nơi vùng cao này”.
Thầy Lê Đình Chuyền, Hiệu trưởng nhà trường, quê ở Thanh Oai, Hà Nội đến nhận công tác tại Nậm Chà từ tháng 2-2019. Kỷ niệm đáng nhớ được thầy chia sẻ là những lần đi bộ cả gần một ngày trời chỉ để gọi điện về cho gia đình ở Hà Nội. Mỗi năm, thầy Chuyền được về thăm nhà 2 lần vào dịp học sinh nghỉ hè và dịp Tết Nguyên đán.
Nhiều thầy cô khác cũng từng lên công tác, cũng nhớ nhà không chịu được, chỉ mong ngóng đến ngày Chủ nhật để đi bộ đến nơi có sóng gọi điện về. Gọi xong, lòng ngẩn ngơ vì nhớ, lưu luyến người thân và lại đi bộ trở về trường, nhiều người mắt ngân ngấn chỉ chực khóc.
“Năm 2012, Nậm Chà mới có đường xe máy để đi, năm 2014 mới có sóng điện thoại, có chuyến xe ô-tô đầu tiên lên với xã, và đến năm 2016 mới có điện để thắp sáng. Bệnh viện ở xa, cách điểm trường trung tâm gần 100km, đi bộ mất khoảng 6 – 7 tiếng đồng hồ mới ra được đường lớn để bắt xe”, thầy Chuyền chia sẻ.
Cũng theo thầy Chuyền, hiện tại Trường PTDTBT Tiểu học Nậm Chà có hơn 170 học sinh nội trú trong tổng số gần 500 học sinh toàn trường. Hơn 200 em thuộc hộ nghèo được hỗ trợ 70.000 đồng/tháng/em, các em ở bán trú được hỗ trợ 460.000 đồng/tháng/em nuôi ăn ở tại trường. Tuy nhiên, do đường sá xã quá xa xôi, hiểm trở nên thực phẩm khan hiếm và khi vận chuyển lên đến nơi cũng đắt gần gấp đôi so với giá gốc. Các thầy cô phải đau đầu vì chi li đội lên, tính toán số tiền này để trang trải đủ thức ăn cho các em.
Trái tim người thầy
Video đang HOT
Có rất nhiều thầy cô vùng xuôi đã lên đây nhưng rồi đành phải trở về hoặc xin chuyển qua những điểm trường khác bớt khó khăn hơn. Còn những người đã trót nặng lòng với Nậm Chà như cô Tình, thầy Chuyền, thầy Ninh, thầy Lượng thì chọn quyết tâm thắp lửa, tạo ra những sự thay đổi cho mảnh đất Nậm Chà từ chính niềm tin, sự kiên trì và tình yêu thương đặc biệt của mình.
Với thầy Lê Đình Chuyền, Phạm Văn Ninh, hạnh phúc không chỉ thấy sự trưởng thành của học trò mà còn là tình cảm, sự gắn bó của bà con dân bản dành cho mình. “Các con là học sinh và bà con dân bản ở đây hiền lành, sống thật thà và tình cảm lắm.
Bữa cơm của học sinh Trường PTDTBT Tiểu học Nậm Chà
Khi nhà trường cần hỗ trợ về nhân lực để xây dựng, dọn dẹp, vệ sinh, bắc cầu tạm qua sông… hay bất cứ công việc gì là mọi người tham gia rất nhiệt tình. Có bí, ngô, khoai, sắn nhà trồng, hay có con cua, con cá thi thoảng bắt được, dù ít dù nhiều cũng mang đến góp chung với thầy cô để cùng chăm sóc cho các con”, thầy Chuyền hào hứng kể lại.
Gắn bó nhiều năm với điểm trường vùng cao đặc biệt này, thầy Chuyền được học trò, dân bản yêu mến, chính quyền xã tín nhiệm. Năm 2013, được mời thuyên chuyển công tác với chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy xã Nậm Chà nhưng thầy Chuyền đã từ chối với một lý do rất giản dị và cũng đầy mãnh liệt rằng: “Tôi đã nguyện gắn bó với sự nghiệp giáo dục. Tôi đã chọn đến với Nậm Chà và bây giờ Nậm Chà đã thành quê hương thứ hai của tôi, đã chọn tôi để góp phần ươm mầm cho những tương lai của Nậm Chà”.
“Chỉ có giáo dục mới thay đổi được cuộc đời các em học sinh, nhất là ở những nơi còn nhiều khó khăn như thế này”. Câu nói phút chia tay cùng nụ cười hiền lành của thầy Chuyền đã trở thành hình ảnh khó quên, để lại một cảm xúc đặc biệt khi chúng tôi chia tay với Nậm Chà.
Có lên với Nậm Chà, gặp gỡ và nghe chia sẻ từ những người thầy tâm huyết như: thầy Chuyền, thầy Ninh, thầy Lượng… mới cảm nhận được hết ý nghĩa lớn lao về hai chữ “Người thầy”. Không chỉ dạy học sinh về con chữ, kiến thức, kỹ năng…, mỗi thầy cô còn thực sự là những người cha, người mẹ thứ hai trong một gia đình lớn.
Các thầy, cô đã học cách vượt qua khó khăn, thiếu thốn với tinh thần lạc quan và một trái tim mang tình yêu thương như trời biển, miệt mài đêm ngày cùng học sinh chạy “đuổi” theo con chữ hằng mong thay đổi cho những cuộc đời trong tương lai.
Bài, ảnh: Lương Đình Khoa
Theo giacngo
Một mình giữa rừng sâu, cô giáo hy sinh tuổi thanh xuân thắp ước mơ cho học sinh vùng cao
Cô giáo mầm non Nông Thị Hảo hy sinh tuổi trẻ để ở lại với thôn bản gieo chữ, thắp ước mơ cho hàng ngàn em thơ giữa đại ngàn Thạch An, Cao Bằng.
Từ thành phố Cao Bằng, vượt hơn 40km, men theo chân núi trên con đường gập gềnh gấp khúc, đến điểm Nặm Cáp, trường Mầm non Minh Khai (xã Minh Khai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng), câu chuyện, mảnh đời và tình người nặng hơn núi rừng của cô giáo mầm non Nông Thị Hảo (36 tuổi) khiến nhiều người rớt nước mắt.
Càng khó khăn càng yêu nghề
Lớp học nhỏ của cô giáo Hảo nằm đơn độc giữa núi rừng .
Năm nay là mùa xuân thứ 14 cô giáo Nông Thị Hảo bám bản. Cô xung phong vượt khó lên vùng cao dạy học khi vừa ra trường. Các em học sinh ở đây 100% là dân tộc thiểu số: Dao, Tày, Nùng. Trẻ không được giao tiếp với xã hội, nên vốn kiến thức về tiếng Kinh còn hạn chế. Vì vậy cô Hảo và các giáo viên khác phải học thêm cả tiếng của các dân tộc để có thể dạy học.
Trong những ngày gian khó gieo chữ, đồng hành cùng học sinh, cô Hảo chứng kiến không ít câu chuyện rơi nước mắt của học trò nghèo kiên trì tới lớp. Để tới trường nhiều em phải đi bộ 6 km rất khó khăn. Mùa đông giá rét, có em chỉ có 2 cái áo sơ mi để mặc, vừa ngồi trong lớp vừa run. Có học sinh tới lớp bằng đi bộ đường rùng, đường suối rất xa, có em nhà cách trường 8km. Học cả ngày nên trẻ mang cơm tới để ăn trưa. Cơm chỉ có muối vừa, rau đắng, cá mắm hay ít thịt, có những em ăn mì tôm sống. Mỗi lần nhìn học trò như vậy cô Hảo không cầm nổi nước mắt.
Cô giáo Nông Thị Hảo bám bản gieo chữ cho trẻ vùng cao hơn 10 năm.
Tưởng những khó khăn sẽ khiến cô chùn bước, nhưng ngược lại, càng thấu hiểu những khắc nghiệt của vùng cao, cô giáo càng yêu nghề, yêu trẻ hơn. Với cô Hảo được nhìn thấy học sinh đến trường mỗi ngày là món quà lớn nhất với cô. "Chọn nghề giáo viên do yêu nghề. Nếu ai cũng chọn nơi đô thị thì nơi khó khăn hẻo lánh này ai sẽ tới để mang chữ cho các em".
Có lẽ vì suy nghĩ như vậy nên cô Hảo hay các thầy cô ở vùng cao này lúc nào cũng hiện diện với sự tươi vui và lạc quan. Họ không cho phép mình khổ hay khó khăn áp lực. Ngày họ dạy học, tối về soạn giáo án, hoặc tới nhà thăm gia đình học sinh.
Cô Hảo chia sẻ, tới trường được trò chuyện và ngắm nhìn học sinh khiến cô phần nào vơi đi bớt nỗi nhớ nhà, nhớ con của cô.
"Nhớ con, nhớ chồng lắm. Đi dạy xa chỉ tranh thủ cuối tuần 1, 2 ngày bên gia đình. Cũng may mọi người trong gia đình hiểu và thông cảm cho tôi. Nhiều lúc nhớ con thì cũng chỉ biết mang ảnh ra ngắm", cô Hảo rơm rớm nước mắt.
Những đôi mắt trong sáng, nụ cười hồn nhiên của học trò chính là động lực tiếp thêm sức mạnh cho cô giáo trẻ Nông Thị Hảo, vượt qua khó khăn mà hoàn thành việc gieo con chữ cho học sinh mầm non.
Sự hy sinh thầm lặng của cô, chồng và con cô bao năm qua không gì diễn tả được hết. Bởi cô đã hy sinh cả thanh xuân vì lửa nghề và nhiệt huyết cõng con chữ lên đồi cho các cháu dân tộc vùng cao. Cuộc sống của giáo viên bản tuy đơn giản nhưng không hề tầm thường.
Điện, nước, sóng điện thoại là thứ xa xỉ
Nếu phong anh hùng hay chiến sĩ thi đua thì có lẽ cô giáo mầm non nơi đây là những người đầu tiên trong danh sách. Giữa bốn bề chỉ cây và núi, cuộc sống người giáo viên thiếu thốn trăm bề.
Cô giáo Nông Thị Hảo đang dạy học trò viết chữ, đánh vần và nhận biết con số.
Ngay cả những thứ tưởng đơn giản nhất cũng không có, là: sóng điện thoại, sóng truyền hình, nước sinh hoạt, điện, cơ sở vật chất. Nước sinh hoạt được coi là thứ rất xa xỉ, các cô chỉ còn cách tận dụng mọi nguồi nước, nước khe, nước mưa, nước xin nhà dân cách xa vài km về dùng.
Làm việc xa nhà, sống giữa bản nghèo, mà còn không có sóng điện thoại, nên khi nhớ con, muốn nghe giọng nói của con, cô Hảo phải chạy lên đồi, hay chạy ra chỗ có sóng dò trước đó mới liên lạc được.
Con chữ có nặng không mà hành trình mang con chữ tới bản lại gian nan tới thế. Hành trình ấy không chỉ được đo đếm chiều dài những quãng đường, mà hơn hết là tâm huyết, lòng yêu nghề với các em học sinh vùng cao.
Sự cô lập giữa núi rừng hoang vu, trăm bề khổ nhưng không làm nhụt chí người giáo viên mầm non ấy. Cô cứ túc tắc sống. Cô dạy trẻ với sự nhẫn nại và tình thương mà không ai có thể hình dung nổi.
Góc học tập nhỏ của lớp, đều rất đơn sơ và đa số là đồ dùng tự làm.
Những đồ dùng phục vụ học tập được cô tự tay làm, từ con thỏ, con cá đến những đồ chơi ngoài chơi, ném ống, tung cầu đều rất tỉ mỉ và khéo léo. Cô truyền hồn và cảm hứng tới vào đồ chơi để các cháu thích thú và chăm chỉ tới trường mỗi ngày hơn.
Phương pháp dạy học mới cũng được cô tiếp thu trau dồi qua việc trao đổi kinh nghiệm giữa đồng nghiệp, sáng tạo các trò chơi, bài hát gần gũi với dân tộc vùng cao tạo điều mới mẻ, thu hút cho trẻ khi học. Có lẽ như vậy mà sĩ số các lớp luôn đầy đủ.
Không ngại khó, ngại khổ, cô Hảo vẫn miệt mài ngày ngày quan tâm, dạy bảo, ân cần bên học sinh thân yêu của mình mà quen với khó nhọc núi rừng trên mảnh đất Cao Bằng.
"Con đường nào để các em thu nạp kiến thức làm chủ cuộc đời, con đường nào để đem đến một tương lai tươi đẹp hơn cho vùng đất này", câu hỏi ấy cũng là trăn trở của cô Hảo, mà đúng hơn là của xã hội.
Đem được "con chữ" đến cho học sinh vùng cao, thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, các cô phải hy sinh tuổi trẻ, đời sống tinh thần, vượt qua những khó khăn trở ngại cuộc sống, thậm chí nhường cơm sẻ áo, đồng hành với học sinh.
Theo VTC
Chuyện cô giáo Hà Nhì nặng tình với học sinh dân tộc Dao Câu chuyện về cô giáo Khoàng Hà Pơ điểm trường Huổi Lính A, trường Mầm Non xã Nậm Chà, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu đã khiến nhiều người xúc động tại chương trình Thay lời tri ân 2019. Cô Khoàng Hà Pơ vui mừng nhận bằng khen của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Gia đình cô Khoàng Hà Pơ ở xã Mù Cả,...