Những người thầy vĩ đại trong lịch sử thế giới
Không chỉ góp phần thay đổi thế giới, họ còn là những người thầy đáng kính được lịch sử nhân loại tôn trọng.
Nhà giáo dục học vĩ đại Comenxki cũng từng phát biểu: “Dưới ánh mặt trời không có nghề nào cao quý hơn nghề dạy học”.
Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử và văn minh loài người, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu vừa mang trọng trách làm thay đổi lịch sử văn minh vừa là những nhà giáo ưu tú đã dành cả cuộc đời mình để đóng góp cho sự phát triển của toàn nhân loại.
Pythagoras (sinh khoảng năm 580 đến 572 TCN – mất khoảng năm 500 đến 490 TCN)
Có lẽ không ai không biết Pythagoras, một nhà toán học, triết học, khoa học nổi danh nhất nhì thời cổ đại. Tên ông và những định lý toán học cơ bản luôn có trong sách giáo khoa. Ông là người đặt nền móng cho môn hình học với rất nhiều định lý quan trọng (trong đó có định lý Pitago).
Ông chính là người đầu tiên tiên và chứng minh được rằng tổng 3 góc trong 1 tam giác luôn bằng 180 độ.
Không chỉ Toán học, Pitago còn theo đuổi nền khoa học ở các dân tộc khác nhau, điều này khiến ông từng dành nhiều năm nghiên cứu tại Ấn Độ, Ai Cập, Babilon và đương nhiên Pitago trở nên uyên bác ở hầu hết các lĩnh vực quan trọng như: Triết học, thiên văn học….
Khổng Tử ( 28/9, 551 TCN – 11/4, 479 TCN)
Là nhà giáo người Trung Quốc duy nhất có tầm ảnh hưởng đến cả châu lục và thế giới, không thể phủ nhận những đóng góp của ông là vô cùng vĩ đại. Cho đến ngày nay, những tư tưởng và bài học của ông vẫn được lưu truyền vì tính nhân văn, trung nghĩa.
Ông là người sáng lập ra đạo Nho, nói về cách đối nhân xử thế, cách để sống như một người tốt. Nho giáo từ một đạo giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội Trung Quốc sau đó lan truyền đến cả Hàn Quốc và Nhật Bản, Đài Loan cũng như Việt Nam.
Nhờ vào hiểu sâu biết rộng và tư tưởng sống tâm đức, nên hơn 3.000 học trò đã bái ông làm thầy hay còn gọi là “Tam thiên đồ đệ”.
Đối với hơn 3.000 học trò, Khổng Tử luôn truyền dạy kiến thức thật chi tiết và cẩn thận. Ông luôn hướng những học trò của mình sống một cuộc sống sao cho đúng với: Nhân – Lễ – Nghĩa – Trí – Tín.
Với Tam thiên đồ đệ, Khổng Tử được tôn xưng là Vạn thế sư biểu. Kẻ thọ nghiệp mà thông, có đến 77 người câu này nhằm ám chỉ rằng, trong số các học trò của Khổng Tử thì có 77 đệ tử là thông lục nghệ bao gồm Thi, Thơ, Lễ, Nhạc, Dịch và Xuân Thu.
Số học trò xuất chúng của Khổng Tử phải kể đến như: Nhan Hồi (Nhan Uyên), Hữu Nhược, Chuyên Tôn Sư, Tư Mã Canh, Nhan Vô Do, Tất Điêu Khai, Mạnh Ý Tử.
Aristotle ( 384 – 322 TCN )
Là một nhà triết học gia người Hy Lạp, ông vốn là học trò của Plato, được biết đến với rất nhiều nghiên cứu nổi tiếng trong các lĩnh vực như: logic, vật lý, sinh học, chính trị, văn học và nghệ thuật. Ông là người đặt nền móng cho triết học phương Tây.
Không quá khi nói rằng ông là hình ảnh thu nhỏ của cả nhân loại. Kiến thức mà ông nắm giữ gần như trải dài trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Người xưa có câu: chỉ một lời răn dạy của Aristotle có thể làm thay đổi cuộc đời của một người bình thường.
Video đang HOT
Albert Einstein (14/3/1879 – 18/4/1955)
Ông được cả thế giới biết đến như một người thầy vĩ đại trong ngành vật lý học. Mặc dù có rất nhiều câu chuyện xoay quanh tính cách có phần kỳ lạ của ông.
Ngày còn nhỏ, cô giáo của Albert còn nói rằng ông là học sinh thiểu năng và không có tương lai. Trải qua nhiều cuộc thí nghiệm thất bại, Albert đã truyền cảm hứng cho nhiều giáo sư và giảng viên trên toàn thế giới.
Điển hình phải kể đến công lao về việc nghiên cứu ra lý thuyết tương đối hẹp và thuyết tương đối tổng quát của Einstein. Cả 2 đều là nền móng của vật lý hiện đại, mà xa hơn là sự hình thành của vũ trụ và sự vận hành của nó.
Không ngừng tìm tòi nghiên cứu, sau nhiều năm quan sát và thực nghiệm, Einstein đã có những phát minh quan trọng trong lĩnh vực vật lý lý thuyết.
Đến năm 1905, ông cho công bố 5 phát minh, trong đó có 3 công trình quan trọng của vật lý hiện đại gồm: Thuyết phân tử động, thuyết tương đối hẹp và giả thuyết quang tử lượng.
Galileo Galilei (15/2/1564 – 8/1/1642 )
Ông là nhà vật lý, nhà toán học, triết học và thiên văn học của người Ý. Ông được biết đến như người đã tạo ra những cuộc cách mạng vĩ đại của khoa học. Với đóng góp của bản thân, ông được coi như “Cha của Thiên văn học quan sát hiện đại”, “Cha đẻ của vật lý hiện đại” và “Cha đẻ của khoa học hiện đại”.
Isaac Newton (25/12/1642 -20/3/1726 hoặc 1727 )
Ông được biết đến nhiều trong những công trình nghiên cứu về vật lý nhưng thực chất, ông còn là một nhà toán học, nhà thiên văn học, triết học, nhà nghiên cứu thuật giả kim và thần học. Thông qua cuốn “Nguyên tắc toán học của Triết học tự nhiên”, Newton đã đặt nền móng cho các định luật cơ học sau này.
Ông là người nêu ra 3 định luật cơ bản của chuyển động và lực hấp dẫn trong vũ trụ mà các sinh viên vẫn học cho tới ngày nay. Ông cũng là người tìm ra khái niệm của mô-men động lượng và bảo tồn năng lượng, tích phân,…
Ayn Rand (2/2/1905 – 6/3/1982)
Bà là người phụ nữ đầu tiên trong danh sách 10 người thầy có ảnh hưởng nhất đến nhân loại. Mang trong mình hai dòng máu Nga và Mỹ, bà là tiểu thuyết gia nổi tiếng với hoàng loạt các tác phẩm như: Atlas Shrugge, The Fountainhead, Anthem, We The Living. Bà cũng tham gia viết kịch bản cho một số hãng phim nổi tiếng như: Universal, Pictures và Paramount Pictures.
Tuy vậy, giá trị lớn nhất mà bà để lại lại là hệ thống triết học khách quan. Bà phân tích các giá trị và tác động của thế giới quan tới mọi mặt của một cá nhân. Sau này, lý thuyết mà bà đưa ra đã lưu truyền rộng rãi trong giới sinh viên.
Chu Văn An (1292 – 1379)
Ông là một trong những nhà giáo ưu tú và nổi tiếng nhất lịch sử của Việt Nam. Tên thật của ông là Chu An, hiệu là Tiều Ân, tên chữ là Linh Triệt. Chu Văn An là người học rộng, tài cao khiến ai cũng phải nể phục. Dù có khả năng nhưng ông không muốn đứng ra làm quan mà chỉ mở trường dạy học ở làng Huỳnh Cung bên sông Tô Lịch.
Ông từng được chính vua Trần Minh Tông mời đến dạy tại Quốc Tử Giám. Trở thành thầy riêng cho thái tử Trần Vượng, sau này là vua Trần Hiến Tông. Thầy Chu Văn An dâng “Thất trảm sớ”, yêu cầu vua Trần Dụ Tông chém đầu bảy tên gian thần song bị vua từ chối.
Chán nản sự đời, Chu Văn An cáo lão, về ở ẩn gần núi Phượng Hoàng, Chí Linh, Hải Dương, làm một thầy giáo truyền thụ kiến thức cho đến khi mất.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585)
Nguyễn Bỉnh Khiêm tự là Hạnh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ hay Trạng Trình với cuốn “sấm Trạng Trình” tiên đoán việc đời sau. Ông là một nhà giáo nổi tiếng Việt Nam thời kỳ Lê – Mạc phân tranh với tính tình cương trực, mạnh mẽ, không sợ cường quyền.
Từ nhỏ ông đã có tướng mạo khôi ngô tuấn tú, có trí nhớ hơn người. Ông không hứng thú với chốn quan trường dù từng đỗ Trạng nguyên dưới thời vua Mạc Đăng Doanh và từng dâng sớ hạch tội 18 tên gian thần nhưng bị từ chối.
Ông cũng từ quan về ở ẩn, trở thành một nhà giáo lỗi lạc. Học trò của ông trong thời điểm này có những người rất nổi tiếng như Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan…
Bích Phượng
Theo nguoiduatin.vn
Đôi điều cùng tác giả Cao Nguyên qua bài: Thầy cô ơi, sao lại ra đề Văn lạ vậy?
Sau khi bài viết:Thầy cô ơi, sao lại ra đề Văn lạ vậy? được đăng tải thì đã có rất nhiều phản hồi từ độc giả và bài viết này đã có một lượng bạn đọc rất lớn.
Ngày 28/10/2019, trên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đăng tải bài viết: Thầy cô ơi, sao lại ra đề Văn lạ vậy? của tác giả Cao Nguyên đã nhận được sự quan tâm của nhiều bạn đọc.
Ngay sau khi bài viết này được đăng tải thì đã có rất nhiều phản hồi từ độc giả và bài viết này đã có một lượng bạn đọc rất lớn trong mấy ngày qua.
Rất nhiều ý kiến phản hồi, nêu ý kiến của bạn đọc đã được tranh luận. Vậy, nên hiểu như thế nào cho đúng đối với một số chi tiết mà bài viết của tác giả Cao Nguyên đã đề cập?
Đề Văn này đang gây ra nhiều tranh luận của bạn đọc (Ảnh: Cao Nguyên)
Trong bài viết này, chúng tôi xin mạn phép được trao đổi thêm về một số vấn đề về nội dung đề khảo sát chất lượng 8 tuần học kỳ I ở lớp 9 mà tác giả Cao Nguyên đã dẫn chứng trong bài viết của mình.
Thứ nhất: chúng tôi đồng cảm với tác giả Cao Nguyên về đề khảo sát này còn nhiều sơ suất, cẩu thả và thậm chí sai ở một số chỗ. Đề khảo sát cho học sinh lớp 9 cả thành phố mà như vậy là khó có thể chấp nhận được.
Bởi, có những chi tiết như 6 câu thơ được người ra đề trích từ phần cuối đoạn trích Cảnh ngày xuân của Truyện Kiều nhưng người ra đề lại nói đó là đoạn trích trong đoạn Chị em Thúy Kiều là điều rất đáng tiếc.
Thứ hai: câu 3 của phần đọc hiểu về hình thức thì nó thuộc dạng câu vận dụng thấp (yêu cầu viết 200 chữ) nhưng người ra đề lại vận dụng nội dung ở mức vận dụng cao, yêu cầu học sinh "nêu cảm nhận".
Giá như, người ra đề thay cụm từ "nêu cảm nhận của em về sáu câu thơ trên" thành cụm từ " trình bày nội dung chính của sáu câu thơ trên" thì có lẽ đề bài này sẽ phù hợp hơn.
Nếu người ra đề thay cụm từ "nêu cảm nhận..." thì đặt câu 3 trong phần đọc hiểu cũng có thể chấp nhận được bởi vì đề khảo sát chỉ có 90 phút mà đây là dạng đề đại trà, khảo sát chất lượng học sinh thôi.
Tuy nhiên, trong bài viết này có 2 vấn đề mà chúng tôi còn băn khoăn, muốn trao đổi thêm với tác giả Cao Nguyên về nội dung phản biện của tác giả để độc giả có cái nhìn đa chiều hơn.Dạng đề thi tuyển sinh 10 có thời gian 120 phút, 150 phút thì đặt câu viết 200 từ (vận dụng thấp) ở phần tạo lập văn bản sẽ phù hợp với cấu trúc điểm 3/7 hoặc 4/6 như các địa phương đang vận dụng trong việc kiểm tra và thi môn Ngữ văn cấp Trung học cơ sở.
Thứ nhất: ở câu 2 của phần đọc hiểu, người ra đề đã yêu cầu như sau: " Câu thơ "Nao nao dòng nước uốn quanh" sử dụng biện pháp tu từ nào? Ý nghĩa của việc sử dụng biện pháp tu từ ấy?".
Tác giả Cao Nguyên cho rằng: " Câu thơ này không hề có biện pháp tu từ nào cả mà chỉ đơn thuần là Nguyễn Du tả cảnh ngụ tình (mượn cảnh vật để diễn tả tâm trạng của chị em Thúy Kiều khi ngày vui qua mau". Vậy, câu thơ này có phép tu từ không? Theo chúng tôi, câu thơ này có phép tu từ .
Bởi, từ láy "nao nao" ở đây thực chất là phép tu từ "nhân hóa" đã diễn tả nỗi buồn thấm sâu vào cảnh vật, tâm trạng man mác, bâng khuâng, hẫng hụt của chị em Thúy Kiều khi ra về sau lễ hội.
Thứ hai: tác giả Cao Nguyên cho rằng: " Phần Làm văn, yêu cầu học sinh kể tảo mộ ngày Tết nhưng lời dẫn là tảo mộ trong dịp đầu xuân, vừa nói đầu xuân lại nói trong tiết thanh minh. Tiết thanh minh là đã sang tháng 4 (thường rơi vào ngày 4 hoặc 5 tùy theo năm), còn đầu xuân là tháng 1. Sao người ra đề lại nhầm lẫn như thế?
Ngoài ra, giả sử học sinh chưa bao giờ đi thăm mộ người thân cùng cha mẹ trong dịp Tết thì các em biết kể thế nào".
Chi tiết này cũng đã nhận được khá nhiều ý kiến tranh luận của bạn đọc. Vậy, hiểu như thế nào cho đúng với ý người ra đề và tiết thanh minh trong đoạn thơ của Nguyễn Du?
Những học sinh lớp 9 mà được những thầy cô am hiểu về Truyện Kiều giảng dạy thấu đáo thì đề này không có gì là khó khăn cả.Đặt trong tổng thể của đoạn trích Cảnh ngày xuân, trích từ tác phẩm Truyện Kiều, chúng ta sẽ thấy cái hay của Nguyễn Du khi ông viết những câu thơ này.
Bởi, mở đầu đoạn trích này, tác giả Nguyễn Du đã viết: "Ngày xuân con én đưa thoi/ Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi" để nói về khoảng thời gian của mùa xuân. Vì sao tác giả Nguyễn Du lại viết như vậy?
Bởi, mùa xuân có 90 ngày, mà thời điểm chị em Thúy Kiều đi du xuân là "tiết tháng ba", là Tết thanh minh. Trong khi đó, Tết thanh minh là ngày mồng 3/3 âm lịch hàng năm.
Điều này đã được mặc định hàng ngàn năm qua cho đến bây giờ thì người Việt chúng ta, cũng như người Trung Quốc vẫn thường cúng Tết thanh minh (mồng 3/3).
Chính vì thế, Nguyễn Du mới viết: "Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi" có nghĩa là 63 ngày trôi qua của mùa xuân. Hiểu như vậy, ta sẽ thấy câu thơ của Nguyễn Du có lý và hoàn toàn đúng chứ không phải giống như tác giả Cao Nguyên và bạn đọc cho rằng Tiết thanh minh " thường rơi vào ngày 4 hoặc 5 tùy theo năm".
Chúng ta nên nhớ rằng thời Nguyễn Du viết Truyện Kiều và cách tính mùa trong năm thì người ta vẫn dùng tháng, ngày âm lịch (lịch ta) để tính. Lịch tây (dương lịch) có thể thời Nguyễn Du chưa dùng.
Vì vậy, việc đi tảo mộ (sửa sang lại phần mộ của gia đình) từ xưa đến nay của văn hóa người Việt thì chúng ta vẫn thấy diễn ra vào ngày 30 Tết Nguyên đán và ngày 3/ 3 (âm lịch) hàng năm.
Đôi điều dông dài hầu chuyện cùng tác giả Cao Nguyên và bạn đọc Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam thông qua bài viết: Thầy cô ơi, sao lại ra đề Văn lạ vậy? bởi chúng tôi thấy còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này.
Hy vọng, chuyện ra đề kiểm tra, đề thi môn Ngữ văn, nội dung của Truyện Kiều sẽ được nhiều người bàn luận, phản biện để việc dạy và học Văn trong nhà trường phổ thông ngày càng được tốt hơn.
Đặc biệt, những thầy cô dạy Văn, nhất là những thầy cô ra đề cho Phòng, Sở cần cẩn thận hơn để tránh sai sót không đáng có như đề thi được lấy làm dẫn chứng trong bài viết của tác giả Cao Nguyên.
NGUYỄN NGUYÊN
Theo giaoduc.net
Thầy cô ơi, sao lại ra đề Văn lạ vậy? Đọc những đề văn như thế này, chính thầy cô cũng chỉ biết lắc đầu ngao ngán. Hạ tuần tháng 10 hàng năm là thời điểm các trường phổ thông tổ chức kiểm tra tập trung nhằm đánh giá chất lượng học sinh sau một thời gian học. Học sinh thường làm bài kiểm tra tập trung đối với những môn có nhiều...