Những người đàn bà đội đá vá… nghèo
Chuyện “nữ nhi thường tình” đi làm những công việc cần sức lực vâm váp – được mặc định dành cho cánh đàn ông – để kiếm sống là chuyện chẳng hiếm. Thế nhưng, ở xã Quang Minh, huyện Kiến Xương (tỉnh Thái Bình) có tới hàng trăm chị em tổ chức thành tổ nhóm, tỏa đi khắp tỉnh để đội đá, trộn bêtông tại các công trình xây dựng thì tôi dám chắc, ít ở nơi nào có được.
Những bông hồng… đá
Một sáng đầu tháng 3, tôi theo chân 6 phụ nữ của xã Quang Minh sang xã Quang Lịch cùng huyện Kiến Xương. Hôm nay họ sẽ đổ bêtông trần nhà cho một người dân tại xã này. Vừa đến nơi, chỉ kịp dựng gọn những chiếc xe đạp cà tàng vào góc sân, họ bắt tay vào việc. Máy trộn bêtông nổ phành phạch, tống khói khét lẹt mùi dầu nhớt vào mặt mọi người chung quanh. Chẳng ai bảo ai, mọi người tự động đảm nhận công đoạn của mình như đã được lên kịch bản sẵn: Từ đổ đá, cát, ximăng vào máy đến việc chuyển bêtông lên tầng cao.
Chị Nguyễn Thị Thúy (xóm 5, xã Quang Minh) đổ cát vào máy trộn bêtông
Bà Đặng Thị Nhạn tất tả dùng xẻng đổ đá dăm vào một loạt chậu, rồi rất nhanh, như một vận động viên cử tạ, dùng hai tay nâng cái chậu đầy đá đặt lên đầu, di chuyển khoảng 20m, đổ vào máy trộn bêtông. Chiếc máy này cao đến 1,5m, buộc bà phải đội chậu lên đầu rồi mới đổ đá vào máy được. Cứ vậy liên tục. Năm nay bà đã 55 tuổi mà sức khỏe, có lẽ phải đánh bật không ít trai tráng!
Tôi thử dùng tay nhấc chậu, nặng phải cỡ phải 30-40kg. Tôi cảm thấy mình cũng nâng được, nhưng chắc chắn rất chật vật, và có lẽ cũng chỉ nâng được vài lần rồi phải nghỉ để… thở. Ấy vậy mà những người phụ nữ làm việc ở đây, một ngày phải nâng lên, đặt xuống hàng trăm lần như vậy, với khối lượng vận chuyển lên đến hàng tấn. Khi lượng đá đã đủ, bà Nhạn lại chuyển sang đội cát. Trời khá lạnh, nhưng mới một lát, mồ hôi đã lấm tấm nơi áo của bà.
Tại máy bêtông, chị Đặng Thị Xuyến phụ trách “đầu ra”. Chị dùng xô đựng bêtông thành phẩm, rồi mắc vào dây tời để người bên cạnh dùng máy kéo lên tầng trên. Nhìn chị vất vả khống chế những chiếc xô đỏng đảnh đầy bêtông, tôi không khỏi lo cho sự an toàn của chị.
Tranh thủ trò chuyện lúc giải lao, chị Xuyến cho biết, năm nay chị 43 tuổi, nhưng đã có “thâm niên” 10 năm làm nghề đội đá, trộn bêtông. Chị tâm sự: “Lúc mới bắt đầu làm nghề này thì thấy mệt lắm, nhưng sau quen dần…”. Buổi trưa, các chị chạy ra quán phở bình dân trong làng, ăn vội bát phở để chuẩn bị cho buổi chiều.
“Nhiều lần làm ở xã chẳng có quán ăn, thế là tôi phải mua mỳ tôm 3.000 đồng/gói, mượn chủ nhà cái bát rồi xin ít nước nóng, trệu trạo thế cũng xong một bữa trưa. Có hôm thì đổi sang ăn bánh mỳ”- chị Xuyến kể.
Cả làng đi đội đá
Tại sao xã Quang Minh lại có nhiều phụ nữ đi làm nghề trộn bêtông như vậy? Tôi đem câu hỏi này đến ông Nguyễn Văn Kiều, chủ tịch xã. Ông Kiều cho hay, là một xã thuần nông, diện tích canh tác bình quân 1,5 sào/1 người, nếu chỉ trông vào đồng ruộng thì không đủ ăn, nên người dân nơi đây – vốn rất chịu thương, chịu khó – đã tìm mọi nghề để cải thiện cuộc sống. Xuất phát từ nhu cầu xây dựng công trình ngày càng nhiều, họ tạo ra những tổ, chủ yếu là phụ nữ, đi theo những máy trộn bêtông.
“Nghề này xuất hiện tại xã cách đây đã 15 năm. Bây giờ, số phụ nữ đi làm cái nghề “đội đầu” đã lên tới 300-400 người. “Thị trường lao động” của họ khắp tỉnh, thậm chí nhiều chị em còn lên cả Hà Nội hành nghề dài hạn. Thi thoảng xã cũng ghi nhận có những chị em bị tai nạn lao động, chủ yếu là gãy tay, gãy chân, gãy xương sườn…” – ông Kiều nói.
Video đang HOT
Chị Đặng Thị Xuyến mắc xô chứa bêtông vào tời để đưa lên tầng
Giúp tôi tìm hiểu kỹ hơn về nghề này, ông Kiều chỉ tôi đến nhà bà Tính ở thôn Bạch Đằng, vốn là người có thâm niên lâu nhất trong nghề đội bêtông trong xã, hiện giờ đã là “cai”, nhận việc rồi gọi chị em trong xã đi làm. Năm nay 53 tuổi, bà Tính tên thật là Hoàng Thị Chiến, nhưng được gọi theo tên của chồng. Cuộc đời bà đi lên từ hai bàn tay trắng, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Năm 1995, bà cùng chồng đi đội đá, than, cát ở bến thuyền. Khi có chút vốn, cách đây 7 năm, bà mua chiếc máy trộn bêtông đầu tiên với giá 15 triệu đồng.
“Với những mối quan hệ trong những năm đi đội đá, tôi kết nối, nhận việc từ các chủ thầu xây dựng, rồi gọi người trong xã, chủ yếu là phụ nữ, đi làm. Ngay cả khi có máy, tôi vẫn trực tiếp đội đá, nhưng 2 năm nay, do bị rối loạn tiền đình, nên chỉ chuyên tâm “quản lý, điều hành” thôi”- bà Tính kể.
Đến thời điểm này bà Tính đã có 4 máy trộn bêtông. “Dưới trướng” của bà có 20 “chân chuyên” (những người bà thường xuyên gọi đi làm, dù khối lượng công việc nhiều hay ít) còn nếu nhiều việc, thì bà có thể gọi được từ 50-100 người. Bà Tính tiết lộ: “Nếu nhận việc ở nơi xa, chị em phải đi xe máy thì tôi thêm 20.000 đồng tiền xăng cho một xe. Còn nếu gần mà họ vẫn đi xe máy, thì người ngồi sau sẽ trả tiền xăng. Còn tiền công, có khi chưa thu được ngay từ chủ thầu thuê mình, nhưng tôi vẫn trả trước cho chị em, để cuối ngày về họ có đồng tiền tươi mua thức ăn cho chồng con”.
Đội đá “vá”… những số phận
Tôi tìm đến nhà bà Nguyễn Thị Tơ, 55 tuổi, ở thôn Chi Lăng, là “chân chuyên” của bà Tính. Bà Tơ có cái khắc khổ điển hình của người phụ nữ nông thôn phải chịu nhiều vất vả: Nước da sạm nắng, mái tóc bạc sớm, thưa thớt và bàn tay nứt nẻ, chai sần. Bà đã có 8 năm trong nghề đội đá. Khi nghe tôi nói về chuyện vất vả, nguy hiểm, bà Tơ chép miệng: “Biết là thế, nhưng muốn có tiền thì phải nhao đi làm thôi. Nhọc nhằn mấy tiếng, nhưng mà có tiền ngay. Vất vả nhất là khi trời nóng, mặt thì đỏ như gấc, quần áo thì ướt sũng”.
Bà Tơ cho biết, tiền công được trả theo khối lượng công việc. Một khối bêtông được trả 50 nghìn đồng. Nếu như một ngày làm 20 khối (tương đương cần tầm 6 người), thì mỗi người sẽ được trả khoảng 3 khối, tức là 150 nghìn đồng/ngày. Có hôm cao thì 200 nghìn đồng/người/ngày.
Câu chuyện với chị Nguyễn Thị Hạt, 42 tuổi, trú xóm 1 – người đi làm nghề đội đá từ khi 25 tuổi – đã giúp tôi trả lời câu hỏi tại sao phụ nữ ở đây không chọn nghề khác nhẹ nhàng hơn, mà lại chọn nghề đội đá: “Chị em làm nghề này chủ yếu ngoài 30, đã có chồng con, vướng víu chuyện gia đình. Nếu làm công nhân, phải lu bu cả ngày ở công ty, tối mịt mới về thì ai chăm con cho. Làm “ôsin” ở Hà Nội cũng vậy. Còn với nghề này, tuy vất vả, nguy hiểm, nhưng đổi lại mình còn chăm được con cái, nấu được cho chồng bữa cơm nóng, nuôi thêm được con lợn, con gà, lại tự do, mệt thì nghỉ, có người khác làm thay ngay”.
Chồng chị Hạt cũng làm nghề trộn bêtông, nhưng ở tổ khác để… đảm bảo ngày nào vợ hoặc chồng cũng có việc, có đồng tiền nuôi con. Bao năm nay, những đồng tiền dính bụi ximăng, cát đá đó đã giúp vợ chồng chị nuôi 3 con nhỏ ăn học đàng hoàng. Bà Tính nói đa số các chị trong “chân chuyên” của bà đều có con học đại học. Như chị Xuyến, có con vừa tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp bằng giỏi, hiện đã đi làm ở Hòa Bình. Còn ông Kiều – chủ tịch xã – thì “lưu ý” tôi, rằng ở xã ông hàng năm có khoảng 15-20 cháu vào đại học, không cháu nào phải bỏ học vì nhà nghèo khó cả. Ông ví von phụ nữ xã ông là những bà Nữ Oa đội đá vá trời trong truyền thuyết.
Là ông chủ tịch nói vui thế thôi, bởi họ ngày nào cũng đội đá thật, nhưng chỉ đơn giản để “vá” cái nghèo thôi.
Các chị làm rất tốt và có trách nhiệm
Ông Phạm Trung Đoan, Giám đốc Cty xây dựng Đoan Hùng (khu Cộng Hòa, thị trấn Thanh Nê, huyện Kiến Xương) cho biết: Khi đi xây các công trình trong tỉnh, đến công đoạn trộn bêtông, ông thường gọi điện “giao dịch” với bà Tính, từ đó bà Tính sẽ “điều quân” đến các công trường. “Tôi không những không ngần ngại, mà còn rất thích giao việc đội đá, trộn bêtông cho cánh phụ nữ, bởi các chị, nhất là chị em ở xã Quang Minh, đều làm rất tốt, rất có trách nhiệm. Khi họ đã quen với công việc nặng nhọc này, thì họ làm rất bền sức, thậm chí có người còn làm khỏe hơn, giỏi hơn cả nam giới.
Hơn nữa, là phụ nữ nên khi trộn bêtông xong, họ thu dọn rất gọn gàng, sạch sẽ, tươm tất. Điều này thì bất cứ chủ thầu nào cũng rất thích chứ không chỉ tôi. Tôi cũng muốn tạo điều kiện cho chị em, bởi chỉ mong sao họ có công ăn việc làm, kiếm được đồng tiền để lo toan cho cuộc sống gia đình”.
Cũng theo ông Đoan, thì ngày công của phụ nữ và đàn ông trong cùng một công việc đội cát, đá, trộn bêtông là bằng nhau, không có sự phân biệt.
Theo 24h
Lao động tự do "khát" việc dịp giáp Tết
Từng đợt mưa phùn phùng phùng rơi xuống, cái lạnh như cắt da, cắt thịt bao phủ khắp ngõ ngách, con đường TP Hà Nội. Tuy nhiên, tại nhiều điểm đón việc, ở nhiều lao động tự do vẫn đứng co ro ngoài trời, với hi vọng sớm tìm được việc làm.
Dù còn hơn một tháng nữa mới đến tết Nguyên Đán, thế nhưng đối với nhiều lao động tự do, tết sắp đến đối với họ là gánh nặng cơm, áo, gạo, tiền.
Chạy ăn từng bữa
Trước cái lạnh căm căm của ngày đông, chúng tôi tìm về điểm chờ việc của nhiều lao động tự do ở gần khu vực Cầu Lủ, phường Kim Giang, Quận Hoàng Mai. Tại vỉa hè hai bên đường, hơn chục lao động nam, nữ với phương tiện xe đạp, thúng mủng, ngồi run rẩy chờ người đến thuê mướn.
Nhiều lao động đứng chờ việc cả tuần nhưng vẫn không kiếm được việc làm
Khuôn mặt hốc hác, ánh mắt thâm quầng vì lạnh, anh Nguyễn Văn Hạnh (40 tuổi) quê Nam Trực, Nam Định cho biết, anh cùng với nhiều lao động khác rời quê lên Hà Nội đã nhiều ngày nay nhưng vẫn chưa tìm được việc làm.
"Gần chục ngày nay, hai vợ chồng tôi cứ diễn điệp khúc sáng ra cầu Lủ đón việc, đến tối không có việc lại rồng rắn nhau về phòng trọ. Nhiều hôm hết tiền, vợ chồng tôi phải sang hàng xóm vay tiền đi chợ, bữa cơm của hai vợ chồng hôm đó chỉ có rau và lạc rang", anh Hạnh chia sẻ.
Sinh ra một vùng quê thuần nông, nhà chỉ trồng 4 sào ruộng, thế nên khi ra thành phố đón việc làm anh Hạnh cũng chỉ dám sống trong những căn phòng ọp ẹp, giá rẻ.
Trước cái lạnh thấu da, anh Lưu vẫn ngồi trơ vơ ngoài đường với hi vọng kiếm được việc làm
Có mặt tại căn phòng chưa đầy 8m2 của anh Hạnh ở khu vực thôn Kim Lũ, chúng tôi không khỏi giật mình khi bước vào căn phòng tối om như mực. Ánh điện lập lòe được anh Hạnh bật lên nhưng cũng không thể xua tan nổi không khí lạnh lẽo, ẩm thấp trong căn phòng. Đặc biệt, chiếc giường ngủ của gia đình anh Hạnh ngả vẹo về một bên, bên trên là chiếc chiếu rách nát tả tơi. Bên cạnh, bộ chén uống nước gồm 3 chiếc nhưng có đến 2 chiếc bị sứt miệng, cùng với đó là sự khập khiễng về sắc màu.
Tại khu xóm trọ của anh Hạnh, có 15 căn phòng với gần 30 lao động tự do từ các huyện Nam Trực, Trực Ninh, Hải Hậu (Nam Định) đến thuê trọ. Tất cả những người lao động ở đây đều sống trong điều kiện vật chất sơ sài, đời sống kham khổ.
Trời nhá nhem tối nhưng người lao động vẫn cố nán lại chờ việc
Anh Hạnh cho hay, dù hai vợ chồng anh đã có thâm niên 6 năm lao động tự do, có nhiều mối quan hệ thân thiết với các cai thầu xây dựng ở địa điểm đón việc, tuy nhiên chưa thời gian nào hai chồng anh chị lại rơi vào hoàn cảnh thiếu việc làm như hiện nay.
"Hai đứa con, một đứa học đại học, một đứa học cao đẳng và mẹ già đều trông chờ vào hai vợ chồng tôi đi làm xa. Thế nhưng giờ việc ít, tiền kiếm không ra, cuộc sống của hai vợ chồng tôi những ngày ngóng việc không khác gì ngồi trên đống lửa", anh Hạnh nói.
Công việc của vợ chồng anh Hạnh cũng như bao lao động tự do khác khi đi đón việc đều phụ thuộc vào người thuê mướn. Khi người đến thuê làm việc gì, lao động sẽ làm việc đó, nhưng chủ yếu là những công việc khó, đòi hỏi phải có sức khỏe như phá nhà, đào móng, xây tường rào, bốc hàng đêm, đến việc dọn nhà, thậm chí là việc thông cống...
Thấp thỏm ngóng việc
Phần lớn những người lao động rời quê lên thành phố tìm việc đều xuất thân từ nông dân và có hoàn cảnh khó khăn. Do đó, mỗi lao động khi đi làm đều mang trên mình áp lực tiền bạc và nỗi lo cho gia đình.
Anh Nguyễn Xuân Lưu (38 tuổi) quê Thái Thụy, Thái Bình rời quê lên thành phố gắn bó với nghề làm thuê đã gần 7 năm. Với khoảng thời gian ấy, mỗi tháng anh phải kiếm tiền gửi về cho gia đình khoản tiền 4 triệu đồng lo cho 2 đứa học phổ thông và 1 đứa học tiểu học.
Năm 2008, ngành xây dựng phát triển mạnh, anh Lưu thường xuyên có việc làm nên tiền bạc lo cho hai con ăn học và lo trang trải ngày tết anh có thể cáng đáng nổi. Thế nhưng, kể từ năm 2010 trở lại đây, kinh tế khó khăn, công việc bấp bênh đã khiến anh không khỏi lo lắng.
"Tôi lên Hà Nội đã gần chục ngày mà vẫn chưa đón được việc làm. Giờ đứng đợi việc mà tâm trí tôi cứ thấp thỏm, lo lắng về việc làm và cái tết cho cả gia đình đang đến gần", anh Lưu tâm sự.
Phần lớn lao động đi làm thuê đều sống trong những căn phòng xập xệ
Thiếu việc làm, điều này đã khiến những giấc ngủ hàng đêm của anh Lưu bị xáo trộn. Nhiều đêm anh đã chợt tỉnh giấc trong khi cảnh vật vẫn còn chìm trong giấc ngủ và rồi trong những lúc đó anh lại thấp thỏm, lo lắng về tương lai của ngày đón việc tiếp theo.
Theo anh Lưu, vợ chồng anh cùng 4 đứa con chỉ sống nhờ vào 4 sào ruộng. Do vậy, dù còn hơn một tháng nữa mới đến tết Nguyên Đán nhưng anh đã phải lo kiếm tiền trang trải trong những ngày tết từ trước đó 1 tháng.
Cũng như anh Lưu, anh Nguyễn Văn Độ 38 tuổi, quê Nam Trực, tỉnh Nam Định cũng ngồi đón việc cả tuần ở cầu Lủ mà vẫn chưa có việc làm.
Anh Độ cho biết, nhiều người lao động dậy từ 6h sáng ra địa điểm chờ việc, tuy nhiên phần lớn những người đón việc như anh đều rơi vào hoàn cảnh thất nghiệp nhiều ngày, không bắt được việc làm, ai cũng mang nặng tâm trạng thấm thỏm, lo lắng.
"Dù có thâm niên 10 năm làm nghề lao động tự do nhưng chưa đợt đi làm nào tôi lại bị thất nghiệp dài như thời gian này. Thiếu việc, tôi cũng như nhiều lao động khác đã tính đến giải pháp về quê sớm còn cái tết sắp đến dù có đói thì gia đình chúng tôi cũng đành phải cố gắng khắc phục", anh Độ ngán ngẩm nói.
Theo 24h
Nhọc nhằn đời nữ cửu vạn chợ đầu mối 22h. Khi thành phố chìm vào giấc ngủ bình yên, cũng là lúc chị Hai Thơm bước ra khỏi nhà. Đã 25 năm lấy đêm làm ngày, từ thời chị còn con gái, đến nay đã thành một trong những nữ cửu vạn có tuổi cao nhất nhì ở chợ đầu mối Bình Điền (quận 8, TP HCM). Công việc nặng nhọc này...