Những nghiên cứu mới về Covid-19
Cục m.áu đông liên quan đến các biến thể gen hay kháng thể cô đặc có thể giúp những bệnh nhân bị ức chế miễn dịch là kết quả của những nghiên cứu mới gần đây về Covid-19.
Cục m.áu đông liên quan đến các biến thể gen
Theo Reuters, nghiên cứu mới có thể giúp làm sáng tỏ vấn đề đông m.áu hiếm gặp nhưng khá nghiêm trọng, liên quan đến vaccine Covid-19 của AstraZeneca hoặc Johnson & Johnson.
Tiêm vaccine Covid-19 tại một trung tâm tiêm chủng ở Brussels, Bỉ. Ảnh: Reuters
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, 5 người giảm tiểu cầu huyết khối miễn dịch do vaccine, đều có kháng thể có cấu trúc bất thường chống lại một protein gọi là PF4 có liên quan đến quá trình đông m.áu. Ngoài ra, cả 5 người đều xuất hiện một biến thể gen chịu trách nhiệm sản xuất các kháng thể này.
“Sự kết hợp của một biến thể trong một gen và sự phát triển của kháng thể này có hại cho protein PF4, dẫn đến biến chứng đông m.áu”, các nhà nghiên cứu cho biết.
Video đang HOT
Tom Gordon và Jing Jing Wang tại Đại học Flinders, hai trong số các tác giả của nghiên cứu, cho biết, phát hiện này “mở đường cho một công cụ sàng lọc gen tiềm năng để xác định những bệnh nhân mang biến thể gen này có nguy cơ bị biến chứng đông m.áu” sau khi tiêm vaccine.
“Ngoài ra, điều này cung cấp cơ hội để phát triển liệu pháp cụ thể nhằm vô hiệu hóa loại kháng thể có tính sát thương cao này”, hai nhà nghiên cứu cho biết.
Kháng thể cô đặc có thể giúp những bệnh nhân bị ức chế miễn dịch
Theo một thử nghiệm nhỏ, những bệnh nhân mắc Covid-19 nhập viện bị suy giảm hệ miễn dịch nghiêm trọng có thể được điều trị bằng một dạng huyết tương giàu kháng thể tinh khiết, cô đặc cao từ những người đã mắc bệnh trước đó, được gọi là huyết thanh miễn dịch (hyperimmune globulin).
Các nhà nghiên cứu tại Hà Lan đã đo lường nhu cầu thở máy, cung cấp oxy lưu lượng cao qua ống thông mũi sau khi xuất viện của 18 người vào 4 tuần sau khi sử dụng hyperimmune globulin.
Theo báo cáo được đăng tải trên medRxiv hôm 5/4, những kết quả bất lợi chỉ xảy ra ở 20% bệnh nhân được tiêm hyperimmune globulin để tăng cường kháng thể chống SARS-CoV-2, so với 88% những người không có triệu chứng nào.
Những người tham gia thử nghiệm là những bệnh nhân cấy ghép nội tạng dùng thuốc ức chế miễn dịch mạnh.
Các nhà nghiên cứu kết luận rằng đối với những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch nghiêm trọng, hyperimmune globulin “có thể làm giảm nguy cơ mắc Covid-19 nặng và có thể được sử dụng khi không có sẵn liệu pháp kháng thể đơn dòng”./.
Tình trạng suy giảm nhận thức có thể kéo dài sau khi mắc COVID-19
Hai nghiên cứu mới công bố trong tuần này đã cung cấp thêm những bằng chứng cho thấy bệnh COVID-19 có thể dẫn tình trạng suy giảm nhận thức, kể cả ở những ca bệnh nhẹ.
Nhân viên y tế chăm sóc bệnh nhân mắc COVID-19 tại một bệnh viện ở Brussels, Bỉ. Ảnh tư liệu: AFP/TTXVN
Một nghiên cứu, đăng trên tạp chí Nature, nghiên cứu 785 người tham gia chương trình UK Biobank tại Anh trong độ t.uổi từ 51-81. Nhóm này được chụp ảnh cắt lớp não bộ và tiến hành kiểm tra nhận thức. Trong số này, 401 người nhiễm COVID-19 sau khi cung cấp các dữ liệu trên cho chương trình Biobank và 384 người không nhiễm. Cả 2 nhóm đều được chụp ảnh cắt lớp não bộ và kiểm tra nhận thức sau mắc COVID-19.
Kết quả chỉ ra, so với nhóm không mắc COVID-19 thì hình ảnh chụp cắt lớp não bộ ở những người mắc COVID-19 có nhiều thay đổi hơn so với trước đó trong khi điểm kiểm tra nhận thức của những người này cũng giảm đáng kể.
Sự chênh lệch vẫn lớn sau khi 15 người mắc COVID-19 thể nặng được tách ra khỏi nghiên cứu, phản ánh thực trạng kể cả mắc COVID-19 nhẹ cũng bị ảnh hưởng đến não bộ. Những thay đổi ở não bộ có thể kể đến như độ dày của chất xám giảm, dấu vết tổn thương dây thần kinh tại các vùng có chức năng kết nối với nhân khứu giác trước...
Điểm kiểm tra nhận thức tiếp tục suy giảm theo thời gian ở nhóm mắc bệnh COVID-19. Mức độ suy giảm cũng tương ứng với những thay đổi vật lý trong não bộ người mắc COVID-19. Thời gian trung bình từ lúc được chẩn đoán mắc COVID-19 đến khi tiến hành chụp cắt lớp não bộ là 141 ngày, cho thấynhững tác động tiêu cực với não bộ có thể kéo dài ít nhất 4-5 tháng sau mắc bệnh.
Các tác giả cho rằng cần tiến hành thêm nghiên cứu để xác định liệu những chức năng não bộ bị ảnh hưởng có được khôi phục phần nào hay không và những tác động trên có kéo dài hay không.
Nghiên cứu thứ 2, công bố trên tạp chí khoa học thần kinh JAMA, được thực hiện với 1.438 người từng mắc COVID-19 và 438 người chưa mắc, trên 60 t.uổi, ở thành phố Vũ Hán, Trung Quốc. Các bài kiểm tra nhận thức được thực hiện trong các mốc 6 và 12 tháng sau mắc bệnh. Những người được nghiên cứu đều không mắc các bệnh suy giảm nhận thức, gia đình không có người sa sút trí tuệ hoặc các bệnh mãn tính nặng trước khi mắc COVID-19.
Kết quả chỉ ra tỷ lệ suy giảm nhận thức ở nhóm mắc bệnh cao hơn đặc biệt là những người bệnh nặng. Nhóm này có nguy cơ suy giảm nhận thức cao hơn 4,87 lần so với nhóm không mắc bệnh trong khi nguy cơ suy giảm nhận thức nghiêm trọng ở nhóm này cao hơn 19 lần. Những người mắc COVID-19 thể nhẹ có nguy cơ suy giảm nhận thức nhẹ cao hơn 1,71 lần.
Các tác giả cảnh báo những kết quả trên cho thấy đại dịch COVID-19 có thể góp phần làm gia tăng gánh nặng chăm sóc y tế trên thế giới liên quan các bệnh sa sút trí tuệ.
Sản phụ 40 t.uổi mắc COVID-19, đái tháo đường nặng sinh con khỏe mạnh Bệnh viện Phụ sản Hà Nội đã mổ cấp cứu "bắt con" thành công cho thai phụ L.T.L (40 t.uổi, trú tại Cầu Diễn - Hà Nội) mang thai hơn 34 tuần, dương tính với SARS-CoV-2. Mới đây, Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội (cơ sở 2) tiếp nhận Bệnh nhân L.T.L. (40 t.uổi trú tại Cầu Diễn - Hà Nội) mang thai...