Những ngày viết tài liệu ‘tuyệt đối bí mật’ của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Từ ngày 10/5/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu viết tài liệu đề “Tuyệt đối bí mật”. Hoàn thành sau bốn ngày, song suốt bốn năm sau đó, năm nào Người cũng đem ra đọc lại, chỉnh sửa và bổ sung.
TS xin trích đăng hồi ký của ông Vũ Kỳ, thư ký riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi đề cập đến thời gian Người viết di chúc.
“Tôi nhớ mãi sáng tháng 5 ấy. Trời cao và trong xanh. Mây trắng lững lờ trôi trên bầu trời Ba Đình. Phía đầu hồi nhà sàn, chim nhảy chuyền cành, gọi nhau ríu rít.
Đó là buổi sáng thứ hai, ngày 10/5/1965 không thể nào quên. Khắp nơi trong cả nước đang sôi nổi thi đua lập thành tích mừng thọ Bác Hồ 75 tuổi. Bác vẫn ung dung như thường lệ.
Từ 7h sáng, tại phòng khách cạnh nhà ăn phía bên này hồ, Bác ngồi nghe đồng chí Bộ trưởng Giao thông Vận tải đến báo cáo về con đường chiến lược qua đất Lào. Bác chăm chú nghe, thỉnh thoảng hỏi thêm, rồi căn dặn một số vấn đề.
Tôi theo Bác lên nhà sàn, báo cáo công việc chính trong tuần. Cành phượng là là trên mặt nước, nụ hoa đã nở đỏ. Đàn cá đớp động, đáy nước lung linh mây trời. Đúng 9h, Bác Hồ ngồi chăm chú viết. Vấn đề chắc đã được suy ngẫm từ lâu. Phòng làm việc trên nhà sàn càng yên tĩnh. Gió mát dịu, thoang thoảng hương thơm của hoa vườn.
Chính vào giờ phút đó, Bác Hồ đặt bút viết những dòng đầu tiên vào tài liệu “Tuyệt đối bí mật” để dặn lại cho muôn đời con cháu mai sau.
Bác chọn đúng một ngày tháng 5, nhân dịp sinh nhật của mình, đúng lúc 9h, giờ đẹp nhất của một ngày, chọn đúng vào lúc sức khỏe tốt nhất trong những năm gần đây để viết về ngày ra đi của mình, sao mà thanh thản, ung dung đến thế!
Bác Hồ suy nghĩ về việc này từ đầu những năm 60, sau khi dự Hội nghị đại biểu các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế từ Mátxcơva trở về. Những bất đồng dẫn đến bất hòa giữa các Đảng anh em, nhất là trong việc đánh giá kẻ thù, càng làm cho Bác suy nghĩ nhiều.
Trong tình hình đất nước và thế giới đang có những diễn biến phức tạp, việc Bác Hồ quyết định viết rõ “những lời dặn lại” là rất cần thiết và đúng lúc. Đúng 10h, một giờ đã trôi qua, Bác gấp những tờ giấy “tuyệt đối bí mật” lại, cẩn thận cho vào phong bì rồi để vào ngăn trên giá sách.
Bác Hồ lại ung dung, thanh thản trở lại công việc hàng ngày của vị Chủ tịch nước, Chủ tịch Đảng, của người hoạt động không biết mệt mỏi cho phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và ông Vũ Kỳ
Những ngày sau đó, mỗi ngày Bác đều dành một giờ để viết tiếp tài liệu “Tuyệt đối bí mật”. Riêng ngày 14/5/1965, do bận việc nên không thể viết tiếp vào lúc 9h, Bác đã dành gấp đôi thời gian để viết vào buổi chiều, từ 14h đến 16h. Thời gian này Bác căn dặn về việc riêng: “Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho con cháu thanh niên và nhi đồng”.
Đúng hẹn, đồng chí Lê Duẩn sang gặp, cũng vừa lúc Bác đánh máy xong tài liệu “Tuyệt đối bí mật” vào lúc 16h. Dù là ngày 14 nhưng Bác lại đánh máy dòng chữ “Hà Nội ngày 15/5/1965″ trước chữ ký Hồ Chí Minh.
17h, anh Cả sang cùng ăn cơm với Bác, báo cáo cụ thể về chuyến đi công tác ngày mai. Một giờ sau, các đồng chí Bộ Chính trị và một số đồng chí ủy viên trung ương tranh thủ vào chúc thọ Bác, vì biết được chương trình của Bác sáng mai đi công tác khoảng một tháng.
Một bó hoa tươi được đặt trang trọng giữa bàn, Bác Hồ đứng dậy thân mật hỏi: “Bác muốn biết ai đứng ra tổ chức cuộc gặp mặt hôm nay? Hoặc cơ quan nào, đoàn thể nào”. Đồng chí Lê Duẩn tủm tỉm cười, đưa mắt nhìn sang đồng chí Phạm Văn Đồng, đồng chí Phạm Văn Đồng nhìn sang đồng chí Trường Chinh. Đồng chí Trường Chinh đứng dậy hướng về phía Bác Hồ: “Thưa Bác, nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 75 của Bác, chúng tôi thay mặt Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xin chúc Bác mạnh khoẻ, sống lâu”.
Video đang HOT
Mọi người vỗ tay nhiệt liệt hưởng ứng lời phát biểu của đồng chí Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bác xúc động đứng dậy nói: “Bác cảm ơn các chú đã có lòng, nhưng trong lúc toàn dân ta đang kháng chiến gian khổ, mọi công việc hết sức khẩn trương mà lại tổ chức chúc thọ một cá nhân là không nên”.
Rồi Bác hỏi: “Chú Kỳ xem có gì chiêu đãi không?”. “Thưa Bác, có ạ. Tôi vừa trả lời vừa ra hiệu để các đồng chí phục vụ chuyển kẹo bánh ra. Bác vui vẻ giơ tay cao mời tất cả mọi người ăn kẹo, ăn bánh và dặn nhớ để phần cho các thím, các cháu ở nhà. Tất cả cười vang, đầm ấm, chan hoà. Lễ sinh nhật lần thứ 75 của một vị Chủ tịch nước diễn ra như thế.
Bước sang tuổi 76, tay chân Bác cử động khó khăn hơn. Hội đồng y khoa xác định đó là triệu chứng của hiện tượng tưới máu não không đều. Bác tăng cường luyện tập để chống lại bệnh tật, rất kiên trì, tuân thủ phương pháp, giữ đúng giờ giấc.
Nhớ lời Bác dặn năm ngoái, trước 9h ngày 10/5/1966, tôi đặt chiếc phong bì tài liệu “Tuyệt đối bí mật” trên bàn làm việc của Bác, nhưng không thấy Bác viết gì thêm.
Ngày hôm sau, 11/5, Bác vẫn dành đúng một tiếng, từ 9h đến 10h để tiếp tục suy nghĩ về những điều dặn lại cho mai sau. Bác đọc rất chăm chú từng câu, từng chữ mà Bác đã đánh máy xong từ lúc 16h ngày 14/5/1965. Nhưng Bác không viết gì thêm. Có lúc Bác cầm bút lên rồi lại đặt xuống.
Từ ngày 12 đến ngày 14, Bác họp Bộ Chính trị. Chính trong những ngày này, Bác đã viết thêm một câu đặc biệt quan trọng ở phần đoàn kết: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng”.
Năm nay (1966), Bác viết thêm liền sau đoạn đó: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Trong suốt một năm Bác chỉ dặn một câu như thế. Chỉ một câu nhưng đó là điểm cơ bản nhất của vấn đề đoàn kết bởi nếu không có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau thì dù có tự phê bình và phê bình đến mấy, dù được gọi là có tinh thần đấu tranh thẳng thắn đến mấy hiệu quả cũng chẳng được là bao.
Những năm sau đó, cứ đến giữa tháng 5, Bác lại giở tài liệu “Tuyệt đối bí mật” ra đọc lại. Nếu như năm 1965 Bác mở đầu: “Năm nay tôi 75 tuổi, tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn mạnh khoẻ” thì năm 1968 Bác viết lại: “Năm nay tôi vừa 78 tuổi, vào những lớp người trung thọ. Tinh thần vẫn sáng suốt tuy sức khoẻ có kém so với vài năm trước đây”.
Có thể nói tài liệu này đã được hoàn thành từ năm 1965 nhưng cũng như bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 1946, Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước 1966, cứ còn thời gian là Bác sửa chữa, thêm bớt.
Ngày 12/5/1969, buổi sáng dự hội ý Bộ Chính trị từ 8h đến 10h nên Bác chuyển sang buổi chiều từ 15h đến 16h, sau khi khám bệnh xong mới đưa tài liệu ra sửa chữa. Những ngày này Bác tập trung vào sửa chữa đoạn mở đầu và phần viết thêm năm 1968.
Ngày 18/5 là một ngày chủ nhật nắng đẹp. Tối hôm qua, Bác hỏi tôi ngày mai chú có bận gì không? Tôi thưa là có việc phải ở lại, bởi tôi biết ngày mai Bác vẫn tiếp tục sửa chữa tài liệu. Dù có bận việc riêng gì đến mấy tôi cũng không thể không có mặt ở cơ quan trong giờ phút đó.
Hôm nay Bác chữa hai chữ và thêm hai chữ. Đứng về mặt ngữ pháp có thể nói là một sự mẫu mực. Đó là câu: “Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc để thăm hỏi đồng bào, cán bộ và chiến sĩ”. Bác gạch chữ “thăm hỏi”, và thay bằng chữ “chúc mừng” bởi đến ngày thắng lợi hoàn toàn thì chúc mừng là chính xác nhất.
Ngày 19/5/1969, sinh nhật cuối cùng của Bác. 5h30, tôi và các con đồng chí Cẩn đến chúc thọ Bác. Khi chúng tôi đến nhà sàn thì Bác đã dậy và đang tập luyện. Bác ngồi ở bàn, ném bóng vào cái giỏ đựng giấy ở góc nhà, rất kiên trì và cố gắng. Tôi dừng lại một lát, bỗng cảm thấy trong lòng trào lên một nỗi niềm xúc động vô hạn. Bác đang chuẩn bị ra đi, nhưng Bác vẫn muốn ở lại thêm với con cháu, vì sự nghiệp cách mạng chưa hoàn thành, miền Nam chưa giải phóng, Tổ quốc chưa thống nhất.
Đúng 9h trong ngày sinh nhật, Bác ngồi vào bàn làm việc với bản “Tài liệu tuyệt mật” trước mặt. Bên ngoài nắng sớm và gió nhẹ làm rung rinh hoa lá. Những chùm hoa phượng nở sớm, đỏ rực rỡ. Mặt hồ lăn tăn, lấp lánh ánh mặt trời. Một làn gió làm bay những sợi tóc bạc của Bác. Bác ngồi đó, tựa lưng vào thành ghế thoải mái, ung dung, nét suy tư hiện lên trên vầng trán rộng”.
Theo Vnexpress
Bí ẩn về những thước phim quay Lễ Độc lập mùng 2/9/1945
Những thước phim vô giá có tên "Ngày Độc lập 2/9/1945" ghi lại hình ảnh chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập đã đi vào tâm khảm người Việt Nam. Nhưng ít ai biết đằng sau thước phim đó có những câu hỏi chưa có lời giải đáp.
Tạp chí Nghệ thuật Điện ảnh số 6/1990 có đăng một bài viết của nhà báo Trung Sơn với tựa đề "Ai là người ghi hình phim ngày Tết Độc lập 2/9/1945?". Bài viết đó cho biết một chi tiết khá lý thú liên quan đến đoàn làm phim "Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh" của đạo diễn Phạm Kỳ Nam làm năm 1975.
Sau một thời gian quay ở Paris, trước khi đoàn trở về nước, đạo diễn Phạm Kỳ Nam bất ngờ được lễ tân khách sạn chuyển đến một hộp các tông được bọc kín. Khi trao chiếc hộp này, người gửi chỉ nhờ lễ tân khách sạn nhắn với đạo diễn Phạm Kỳ Nam rằng đây là quà tặng của một người bạn của Việt Nam rồi lẳng lặng đi mà không cho biết tên tuổi.
Đem lên phòng khách sạn mở ra, đạo diễn Phạm Kỳ Nam hết sức ngạc nhiên khi nhận ra món quà đó là những hộp phim 16 ly với những hình ảnh đen trắng ghi trọn vẹn ngày lễ Tuyên bố Độc lập tại quảng trường Ba Đình ngày mùng 2/9/1945.
Những thước phim về buổi lễ đó với hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước đông đảo đồng bào trên quảng trường Ba Đình ngày ấy đã được ráp nối lại để thành một bộ phim tài liệu dài 30 phút có tên "Ngày Độc lập 2/9/1945". Bộ phim đã trở nên rất đỗi thân thuộc đối với mỗi người Việt Nam mà ngày nay chúng ta vẫn thường được xem trên màn ảnh nhỏ mỗi dịp quốc khánh.
Khi về làm Tổng thư ký Hội Điện ảnh Việt Nam (1989-2000) kiêm Tổng biên tập Tạp chí Nghệ thuật Điện ảnh (cơ quan ngôn luận của Hội Điện ảnh), tiền thân của tờ Thế giới Điện ảnh hiện nay) tôi (Đạo diễn Đặng Nhật Minh) rất quan tâm đến nội dung được thông tin trong bài báo của nhà báo Trung Sơn. Tôi rất muốn tìm ra ai là người quay những thước phim trên.
Đạo diễn Đặng Nhật Minh
Năm 1990, nhân dịp kỷ niệm 45 năm ngày Quốc khánh, tôi bàn với anh Trung Sơn và anh em trong tòa soạn tạp chí Nghệ thuật Điện ảnh phát động một cuộc điều tra để tìm hiểu ai là tác giả của những thước phim kia.
Lúc đó, tôi chỉ nghĩ đơn giản là mời những người có trách nhiệm có mặt trong buổi lễ ngày hôm đó viết bài đăng trên tạp chí là có thể tìm ra đầu mối một cách dễ dàng, chắc nó không xa quá tầm tay.
Vậy là chúng tôi tìm đến các nhân chứng lịch sử liên quan đến sự kiện ngày 2/9/1945 để mời viết bài. Trong các nhân vật được mời viết có Tướng Trần Độ (Thứ trưởng Bộ Văn hóa khi đó), Đạo diễn Phạm Văn Khoa (người được giao nhiệm vụ dựng lễ đài), Nhiếp ảnh gia Vũ Năng An (người chụp bức ảnh nổi tiếng "Bác Hồ ở chiến dịch Đông Khê")... và đặc biệt là ông Nguyễn Hữu Đang - người được Bác Hồ giao trách nhiệm làm Trưởng ban tổ chức Lễ Tuyên bố Độc lập ngày 2/9/1945.
Qua sự giúp đỡ của nhà văn Phùng Quán, chúng tôi tiếp cận được với ông Đang với lời đề nghị giải đáp giùm câu hỏi: Ai là người quay phim có mặt hôm đó tại vườn hoa Ba Đình. Không lâu sau, nhà văn Phùng Quán đem đến tòa soạn một bài viết tay với tựa đề "Những điều còn bí ẩn quanh việc quay bộ phim Ngày Độc lập 2/9/1945", ký tên Nguyễn Hữu Đang.
Qua bài viết này, chúng tôi được tiếp cận với hai nguồn giả thiết về "chủ nhân" bí ẩn của những thước phim kia.
Giả thiết đầu tiên là cuốn phim này được quay bởi ông Hương Ký (tên thật là Nguyễn Lan Hương) - chủ hiệu ảnh nổi tiếng nhất tại Hà Nội khi đó. Đây là một nhân vật có tiếng trong việc đam mê làm phim, chụp ảnh và làm những dịch vụ về quay phim tư liệu.
Ông Nguyễn Hữu Đang đã gặp ông Hương Ký, yêu cầu ghi hình buổi lễ quan trọng này. Tại vườn hoa Ba Đình hôm ấy, hai nhân viên chụp ảnh và quay phim của hiệu ảnh Hương Ký được ông Nguyễn Hữu Đang cấp giấy phép đi lại để tác nghiệp ở những khu vực cho phép. Nhưng cuối cùng ông Hương Ký thông báo không quay được vì sự cố máy móc.
Ông Nguyễn Hữu Đang viết về sự cố này với thái độ hết sức hoài nghi: "Độ một tuần lễ sau Ngày Độc lập không thấy Hương Ký cho biết kết quả quay phim, tôi đến hỏi thì được trả lời là không quay được vì máy trục trặc. Một sự thất bại dường như hoàn toàn do khách quan, không ai chịu trách nhiệm. Tôi bình tĩnh chấp nhận sự rủi ro. Nhưng chỉ ít ngày sau quân Tàu Tưởng đưa bọn Vũ Hồng Khanh về và âm mưu lật đổ chính quyền, thì ông chủ hiệu Hương Ký liền theo Quốc Dân đảng chống lại Việt Minh. Lập tức tôi nghi ngờ ông ta đã không thật lòng, đã không quay phim rồi đổ lỗi cho cái máy - nó không biết cãi".
Tuy nhiên, cũng có những căn cứ để nhiều người tin vào giả thiết những thước phim này là do hiệu Hương Ký quay. Cứ liệu rõ nhất về giả thiết này là dựa vào một tấm ảnh do ông David Marr, một nhà nghiên cứu sử học Úc gốc Mỹ, cung cấp và theo ông bức ảnh cũng do người Mỹ chụp (công bố trong cuốn sách"Why Vietnam?",bản gốc tiếng Anh).
Đây là một tấm ảnh với góc chụp từ dưới hướng lên lễ đài, chụp Chủ tịch Hồ Chí Minh đang đọc Tuyên ngôn Độc lập, đứng bên phải Cụ có một người cầm ô và đáng chú ý là từ phía bên trái có một người đang cầm máy quay phim hướng ống kính về phía Bác Hồ.
Góc quay này được xem là ứng với đoạn phim quay cảnh Người đọc Tuyên ngôn nhìn nghiêng mà chúng ta đã được xem. Tuy nhiên, giả thiết này lại vấp phải một câu hỏi: Vậy tại sao ông Hương Ký không giao lại cuốn phim ngay sau đó cho Ban tổ chức mà đem giấu nó đi? Không ai giải thích được lý do khiến cho giả thiết này vẫn mãi là một dấu chấm hỏi.
Giả thiết thứ hai, tôi thấy ông Nguyễn Hữu Đang nghiêng về suy đoán này nhiều hơn. Và qua những lần cất công tìm hiểu một số đầu mối khác, tôi nhận ra đây có thể là một hướng tìm hiểu có luận cứ rõ ràng hơn cả.
Ông Nguyễn Hữu Đang lập luận cho giả thiết này như sau: "Khả năng này chỉ mới xuất hiện gần đây trong đầu tôi khi đọc trên một tờ báo, đoạn hồi ký của tướng Archimedes L.A. Patti nguyên trưởng phái đoàn Mỹ đến Hà Nội dưới danh nghĩa Đồng minh liền sau Tổng khởi nghĩa của ta thắng lợi. Ông tường thuật cuộc mít-tinh khổng lồ ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình với những chi tiết hết sức đúng, có cả những chi tiết từ trước tới nay, sách báo ta chưa nhắc đến lần nào.
Sự mô tả chính xác chứng tỏ ông và một số nhân viên của ông đã chứng kiến buổi lễ, đã đi lại trong khu vực mít-tinh để như ông kể - chụp ảnh và quay phim. Thật bất ngờ đối với tôi, kẻ mang nặng trên vai trách nhiệm điều hành buổi lễ và kiểm soát cuộc mít-tinh mà không biết có những hoạt động của người ngoại quốc ngay trước mắt mình".
Tìm hiểu sâu hơn về tướng Patti và phái bộ tiền trạm OSS (bí danh Con Nai - "The Deer") của ông, tôi được biết đây là những nhân vật đã chứng kiến buổi lễ 2/9/1945 tại Hà Nội. Đơn vị đặc nhiệm này đã được lãnh tụ Hồ Chí Minh tiếp đón và hợp tác chặt chẽ trong thời gian ở Việt Bắc. Một đại đội Việt - Mỹ đã được thành lập, tham gia vây quân Nhật tại Thái Nguyên và về Hà Nội ngay sau khi giành chính quyền không bao lâu.
Đây là số người nước ngoài hiếm hoi không cần giấy phép của ông Nguyễn Hữu Đang mà vẫn có quyền đi khắp trong quảng trường Ba Đình ngày hôm đó. Trong bài viết của mình, ông Đang có cho biết một chi tiết: Những người Mỹ này có đeo bên cánh tay trái, chỗ gần bắp vai, một mảnh vải biểu trưng lá cờ Mỹ (ecusson) to bằng nửa bàn tay. Chính miếng biểu trưng ấy là cái "giấy thông hành" giúp họ có thể đi lại tự do, và một trong những hoạt động của họ khi đó là quay phim, chụp ảnh mà không ai để ý đến.
Với con mắt nghề nghiệp, tôi thấy những thước phim trên được quay bởi tay máy rất chuyên nghiệp. Và điều đặc biệt là những thước phim này được ghi hình từ nhiều góc độ khác nhau chứng tỏ người quay phim đã di chuyển liên tục trong khi quay để quan sát rồi ghi lại chứ không phải chỉ cầm máy đứng yên một chỗ.
Những toàn cảnh lia biển người trên quảng trường Ba Đình, hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh trên lễ đài, những chân dung nam nữ, những đặc tả bước chân người rầm rập đi trong hàng quân, những tà áo dài của các thiếu nữ Hà Nội bay phấp phới... rất xúc động và ấn tượng. Từ đây, giả thiết về việc những thước phim này được quay bởi người trong phái bộ cơ quan tình báo Mỹ có mặt hôm đó tại quảng trường Ba Đình lại càng được củng cố.
Dẫu sao đây cũng chỉ là một trong những giả thiết bên cạnh những giả thiết của những người tham gia viết các bài khác, nhưng cho đến thời điểm hiện tại thì phỏng đoán của ông Nguyễn Hữu Đang theo tôi vẫn là phỏng đoán có cơ sở nhất.
Cho dù chưa khẳng định được ai là tác giả của những thước phim trên thì vần đề còn lại của chúng ta là trách nhiệm của lương tâm. Sau một thời gian dài khai thác, sử dụng những thước phim này - những thước phim vô giá để lại cho nhiều thế hệ mai sau, chúng ta cũng cần có hình thức nào đó để biểu lộ lòng biết ơn đối với người đã ghi lại những hình ảnh có một không hai đó.
Người đó rất có thể quay xong rồi cất đi đâu đó và lãng quên hoặc tiêu hủy chúng đi vì thấy không còn cần thiết cho mục đích của mình nữa (khi quay có nghĩ đâu sẽ làm một bộ phim tài liệu?). Hoặc giả thiết khác là có thể rao bán những thước phim kia với cái giá rất cao vì biết rằng đó là những tư liệu vô giá. Nhưng không, người đó đã tìm cách trả lại cho "chủ sở hữu" đích thực của những thước phim mà mình đã quay - nhân dân Việt Nam, và trả lại một cách lặng lẽ, tế nhị, không hề mang màu sắc chính trị.
Động thái này khiến tôi liên tưởng đến trường hợp viên sỹ quan Mỹ trả lại cho bà Doãn Ngọc Trâm cuốn nhật ký của con gái bà là nữ liệt sĩ Đặng Thùy Trâm. Cũng là những nghĩa cử cao đẹp giữa con người và con người, một biểu hiện của những giá trị văn hóa. Và vấn đề là chúng ta phải đáp lại những tình cảm chân thành đó sao cho xứng đáng.
Tôi cứ nghĩ nếu người ghi lại những thước phim này là một người quay phim Việt Nam, hẳn người đó đã nhận giải thưởng Hồ Chí Minh và những phần thưởng cao quý khác từ lâu rồi (nhiếp ảnh gia Vũ Năng An chỉ với một bức ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh tại chiến dịch Đông khê đã xứng đáng nhận giải thưởng Hồ Chí Minh).
Dù chưa biết đích xác người đó là ai, người Việt, người Mỹ hay ai khác thì trên tiêu đề của bộ phim "Ngày lễ Độc lập 2/9/1945" cần ghi một dòng chữ: "Những hình ảnh trong phim này được ghi lại bởi một người quay phim ẩn danh".
Đó là cách để thể hiện sự trân trọng và biết ơn của chúng ta. Để nếu người quay phim đó còn sống hoặc những người thân trong gia đình họ đọc được sẽ thấy rằng việc làm của mình hay người thân của mình đã được ghi nhận.
Không có những thước phim đó, hẳn không thể có bộ phim "Ngày lễ Độc lập 2/9/1945". Tôi băn khoăn mãi về điều này, bởi trên tiêu đề của bộ phim mà chúng ta được xem cho đến nay, chỉ thấy đề tên của đạo diễn và người dựng phim.
Đã hơn 20 năm, những ẩn số liên quan đến cuốn phim lịch sử kia vẫn là một cuộc hành trình cần khám phá, dù là bám vào những manh mối rất mong manh. Hy vọng điều bí ẩn trên đây sẽ sớm có câu trả lời và một cuộc điều tra công phu như ông Đang nói là trách nhiệm của hậu thế trước lịch sử.
Đạo diễn Đặng Nhật Minh
Lê Minh Huệ (Ghi)
Theo Dantri
Chương trình nghệ thuật đặc biệt kỷ niệm 45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh Chương trình nghệ thuật đặc biệt ngợi ca Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới đã diễn ra trang trọng tại Hà Nội vào tối 30/8. Chương trình do Ban Tuyên giao Trung ương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức...