Những loại thuố.c cần tránh khi mắc sốt xuất huyết
Sốt xuất huyết gây ra các rối loạn, đặc biệt ở mạch má.u – má.u. Dùng thuố.c nhằm lập lại thăng bằng, chống lại các triệu chứng bất lợi. Nhưng nếu dùng không đúng thuố.c, không đúng cách thì sự rối loạn ấy sẽ tiến triển theo hướng xấu, khiến bệnh trầm trọng thêm.
Dùng dịch truyền để điều trị bệnh sót xuất huyết.
Các thuố.c thường dùng và không được dùng:
Dùng thuố.c hạ nhiệt:
Chỉ dùng paracetamol: Paracetamol độc với gan, thận nhưng tính độc này chỉ xảy ra khi dùng liều rất cao (15g/ngày với người lớn) và hoặc/ lâu dài hay khi dùng cùng với nhiều rượu (rượu làm cạn kiệt nguồn glutathion để chuyển hóa paracetamol thành chất không độc). Còn khi dùng với liều điều trị(thấp hơn nhiều so với liều trên) trong thời gian ngắn (2-5 ngày để hạ sốt) thì paracetamol không gây độc cho cả người lớn lẫn tr.ẻ e.m. Liều dùng trong điều trị SXH: Một lần: 15mg/kg thể trọng (750mg cho người 50kg). Một ngày: 2-3 lần (1.500mg-2.250mg).
Không được dùng aspirin: Trong SXH có hiện tượng chả.y má.u. Aspirin ngăn sự tập kết tiểu cầu, chống đông má.u nên làm cho việc chả.y má.u do SXH gây ra không cầm được (nhất là xuất huyết đường tiêu hóa). Kết quả làm cho bệnh trầm trọng thêm.
Video đang HOT
Riêng với tr.ẻ e.m càng đặc biệt chú ý việc cấm này vì: aspirin là yếu tố thúc đẩy gây hội chứng Reye (phù não và suy gan nhiễm mỡ với tỷ lệ t.ử von.g khoảng 30-50%, nếu sống sót cũng để lại di chứng tổn thương não vĩnh viễn).
Không dùng kháng viêm không steroid: Các kháng viêm không steroid đều có tính này (với các mức khác nhau) nên cũng làm cho việc chả.y má.u trong SXH không cầm được.
Dùng dịch truyền:
Ưu tiên bù dịch bằng đường uống: Người bệnh SXH rất nhạy cảm, dễ bị sốc phản vệ. Nếu SXH ở độ I đầu độ II cần ưu tiên bù dịch bằng đường uống (oresol).
Chỉ truyền dịch khi cần thiết: Khi SXH ở cuối độ II hay đầu độ III, huyết tương thoát ra ngoài mạch nhiều, thể tích má.u trong lòng mạch giảm sút, sốt cao làm mất nước, làm cho sự giảm sút này tăng thêm, má.u bị cô đặc lại, huyết áp tụt xuống, tim nhanh dẫn đến trụy tim mạch cho nên cần truyền dịch. Dịch bị mất trong trường hợp này là “mất nước nhiều hơn mất muối” nên dung dịch truyền phải chứa ít muối. Tốt nhất là chọn dung dịch riger lactat (chứa natri clorid kali clorid canxi clorid natrilactat). Nếu không có thì trộn dung dịch glucose đẳng trương (5%) với dung dịch natri clorid đẳng trương (0,9%) mỗi loại 50%. Khi rất nặng, truyền các dung dịch này mà không nâng được huyết áp thì dùng các dung dịch cao phân tử nhưng phải dùng ở nội viện.
Liều lượng và thời gian bù dịch:
Cần bù đủ lượng dịch bị mất trong vòng 24 giờ nhưng trong 8 giờ đầu chỉ bù 50% và 16 giờ sau bù tiếp 50% lượng dịch bị mất.
Với tr.ẻ e.m: Lượng dịch cần bù bằng P1 (thân trọng lúc chưa mắc bệnh) trừ đi P2 (thân trọng khi mắc bệnh). Tr.ẻ e.m trước khi mắc bệnh không cân nên không biết P1. Vì thế, theo kinh nghiệm, có thể tính liều cho tr.ẻ e.m dựa vào P2. Liều tính bằng ml/kg/trong 24 giờ trong ngày thứ nhất, hai, ba như sau: P2 = 7kg, liều 220-165-132; P2 = 8kg-11kg, liều 165-132-88; P2 = 12kg-18kg, liều 132-88-88; P2 = 18kg liều 88-88-88.
Với người lớn: Với SXH độ II ở giờ đầu liều 6-7mg/kg/giờ, ở giờ thứ hai và ba liều 5ml/kg/giờ ở thứ tư và năm liều 3ml/kg/giờ. Theo đó tính ra ở SXH độ II ở một người nặng trong các thời điểm trên lượng dịch truyền sẽ là 350ml 500ml 300ml = 1.150ml. Với SXH độ III, truyền nhiều hơn ứng với các thời gian trên là lần lượt là các liều:15-20ml/kg/giờ -10ml/kg/giờ – 7,5 ml/kg/giờ.
Tốc độ truyền dịch: Từ lượng dịch và thời gian cần bù nói trên, tính ra tốc độ truyền bằng ml/giờ nhưng tốt nhất là tính bằng giọt/phút dễ theo dõi hơn. Là tốc độ tính bằng ml/giờ chia ra 3 lần thì ra tốc độ tính bằng giọt/phút. Ví dụ: tốc độ 100ml/giờ chia ra 3 lần thì quy ra bằng tốc độ 33 giọt/phút.
Không cần dùng kháng sinh
Dùng kháng sinh nhằm làm yếu virut, tạo điều kiện thuận lợi cho kháng thể tiê.u diệ.t virut bằng cách thực bào. Trong SXH, kháng thể tiê.u diệ.t trái lại làm cho virut phát triển (như nói trên) nên việc dùng kháng sinh không có ý nghĩa. Hơn nữa, trong SXH, má.u bị cô đặc, dùng nhiều kháng sinh bao vây sẽ làm cho nồng độ kháng sinh má.u cao, dễ gây tai biến.
Theo DS. Bùi Văn Uy
Gia đình Online
Chống bệnh sốt dengue bằng muỗi biến đổi gien
Cuối tháng 7.2014, Công ty công nghệ sinh học Oxitec, trụ sở chính ở Abingdo (Anh) sẽ cho ra đời hàng triệu con muỗi biến đổi gien từ một cơ sở tại Campinas, Brazil. Mục tiêu là kiềm chế sự lây lan của bệnh sốt xuất huyết dengue.
Ảnh minh họa
Muỗi vằn là trung gian truyền bệnh, vì vậy những con muỗi biến đổi gien này khi gia.o phố.i với muỗi cái sẽ cho ra một thế hệ muỗi con bị khiếm khuyết và khó sống được đến lúc trưởng thành. Điều này làm cho khả năng truyền bệnh của muỗi bị hạn chế đáng kể.
Nhà nghiên cứu Margareth Capurro tại Đại học Sao Paulo (Brazil) gần đây đã hoàn thành một thử nghiệm nhỏ tại Jacobina cho thấy tác động tích cực khi muỗi biến đổi gien bị hạn chế sinh sản, hạn chế truyền bệnh. Tuy nhiên, thử nghiệm trong phạm vi khá nhỏ nên vẫn phải tiếp tục được nghiên cứu kỹ hơn.
Trong khi đó hãng Oxitec rất tự tin với chiến lược của họ.
Theo hãng tin UPI, việc dùng muỗi biến đổi gien cũng khá tốn kém vì phải sản xuất số lượng lớn và đưa ra môi trường hằng năm.
Tạ Xuân Quan
Theo TNO
10 bài thuố.c quý từ nhọ nồi Loại cỏ mọc hoang ngoài bờ bụi này có tác dụng chữa nhiều loại bệnh rất tốt như chữa thiếu má.u, ăn không ngon, cơ thể suy nhược, gan nhiễm mỡ... Ảnh minh họa: Internet Nhọ nồi còn được gọi với nhiều cái tên khác nhau như: bạch hoa thảo, thủy hạn liên, cỏ mực, hạn liên thảo... Do mọc hoang ở nhiều...