Những liệu pháp ‘chữa’ đồng tính ở thế kỷ 19
Các nhà khoa học thế kỷ 19 dùng cách thôi miên, liệu pháp sốc điện gây ác cảm… để “chữa” cho người đồng tính.
Đồng tính, đặc biệt là mối quan hệ giữa nam giới, bị coi là lệch lạc, tội lỗi và thậm chí tội phạm, trong nhiều thế kỷ. Vào cuối thế kỷ 19, các nhà tâm thần và bác sĩ tìm kiếm cách giải quyết vấn đề đồng tính luyến ái. Họ gắn cho “sự ham muốn đồng tính” bằng các thuật ngữ y tế, coi nó như một vấn đề y khoa và tìm cách đảo ngược nó.
Năm 1899, tại một hội nghị về thôi miên, bác sĩ tâm thần người Đức Albert von Schrenck-Notzing gây sốc cho khán giả với tuyên bố táo bạo, rằng ông đã biến một người đồng tính nam thành dị tính như người bình thường. Ông chia sẻ đầy tự hào rằng “tất cả chỉ mất 45 buổi thôi miên và một vài chuyến đi đến nhà thờ”. Thông qua thôi miên, ông kiểm soát và thao túng những xung năng tính dục của người đàn ông, chuyển mối quan tâm của họ với đàn ông sang ham muốn lâu dài đối với phụ nữ.
Bác sĩ tâm thần người Đức Albert von Schrenck-Notzing.
Một trong những liệu pháp chữa trị bị tranh cãi nhiều nhất là “ liệu pháp gây ác cảm” đã được sử dụng với những người đồng tính từ trước đấy. Liệu pháp này được xây dựng với tiền đề nếu người đồng tính trở nên ghê tởm sự đồng tính luyến ái thì sẽ không còn ham muốn tình dục đồng giới nữa. Dưới sự giám sát y tế, người đồng tính được cho uống những loại hóa chất khiến họ nôn mửa khi nhìn vào ảnh người yêu đồng giới của mình. Những người khác thì có thể bị giật điện trong khi họ xem phim khiêu dâm đồng tính hoặc nhìn ảnh người nam giả gái.
Liệu pháp gây ác cảm để chữa bệnh đồng tính luyến ái từng là một chủ đề nghiên cứu nổi bật tại nhiều trường đại học. Năm 1967, nghiên cứu thực hiện trên một nhóm 43 người đồng tính nam được công bố trên tạp chí Y học Anh. Các nhà nghiên cứu M.J. MacCulloch và M.P. Feldman sử dụng liệu pháp gây ác cảm tại Bệnh viện Manchester, Crumpsall.
Các tình nguyện viên trong thí nghiệm được cho xem hình ảnh của những người đàn ông. Họ được yêu cầu tiếp tục xem cho đến khi thấy người đàn ông trong ảnh hấp dẫn. Tuy nhiên, sau 8 giây hình ảnh được hiển thị, người tham gia thử nghiệm bị cho điện giật. Khi đến hình ảnh phụ nữ được hiển thị, các tình nguyện viên có thể nhìn ảnh mà không có bất kỳ hình phạt điện giật nào.
Thí nghiệm này mang lại một số thành công trong việc chữa đồng tính cho tình nguyện viên. Năm 1994, Hiệp hội Tâm lý Mỹ cho rằng liệu pháp gây ác cảm là nguy hiểm và không đem lại hiệu quả.
Một bệnh nhân đang trải qua liệu pháp sốc điện vào những năm 1950.
Video đang HOT
Một số người đồng tính được điều trị bằng liệu pháp sốc điện, trong khi một số khác phải chịu các kỹ thuật cực đoan hơn như phương pháp lobotomy – phẫu thuật mở não. Về cơ bản, khi phẫu thuật lobotomy, bác sĩ khoan một lỗ nhỏ trong hộp sọ của người bệnh, tạo vết rạch vào thùy não rồi cắt đứt dây thần kinh não kết nối khu vực điều khiển suy nghĩ với các vùng khác của não.
Phương pháp điều trị khác là cú sốc được kiểm soát thông qua các điện cực cấy trực tiếp vào não. Robert Galbraith Heath, một bác sĩ tâm thần ở New Orleans, người tiên phong trong kỹ thuật này, sử dụng hình thức kích thích não bộ thử nghiệm với gái mại dâm và phim khiêu dâm dị tính (phim khiêu dâm giữa nam và nữ), để thay đổi xu hướng tình dục của những người đồng tính nam.
Ngày nay những phương pháp này vẫn bị chỉ trích nặng nề vì tính phi đạo đức trong mục đích lẫn cách thức thực hiện.
Nguyễn Phương
Theo History/VNE
7 thí nghiệm y khoa kỳ lạ
Để tìm hiểu các vấn đề y khoa, các nhà khoa học thế giới áp dụng nhiều cách thức mới như uống máu của mình, bơm tinh trùng vào da...
Để ong chích lên cơ thể
Muốn tìm ra vị trí cơ thể bị ong đốt đau nhất, nhà côn trùng học Micheal Smith đã để loài ong châu Âu đốt từ đầu xuống chân trong 38 ngày. Có 25 bộ phận cơ thể khác bị đốt như má, nách, ngón tay, sườn, bụng, cẳng chân...
Dựa vào đánh giá mức độ đau của chính mình, Smith nhận thấy có 3 điểm cơ thể bị đốt đau nhất. Trong đó, lỗ mũi là vị trí đau nhất, sau đó đến nách và dương vật. Vị trí ít đau nhất là ở đầu, ngón chân và phần cánh tay. Smith cho biết chỉ thử nghiệm trên đàn ông, vì vậy không thể đánh giá mức độ đau ở nữ.
Một nhà khoa học cho ong chích lên cơ thể để tìm vị trí bị đốt đau nhất. Ảnh: Healthline
Bơm tinh trùng vào da
Một người phụ nữ nước Anh có tiền sử bị dị ứng với quả hạch Brazil đã phát ban và lên cơn khó thở sau khi quan hệ tình dục với bạn trai. Trước đó 3 tiếng đồng hồ, anh này đã ăn một hũ hạch trộn có 5 quả hạch Brazil.
Để tìm ra nguyên nhân gây dị ứng, bác sĩ tiêm vào da người phụ nữ tinh trùng của bạn trai cô sau khi anh ta ăn hạch Brazil. Kết quả cho thấy cô có phản ứng dị ứng với các phần tử nhỏ của hạch Brazil có trong tinh trùng của bạn trai.
Ngồi trong phòng đầy khói thuốc lá
Để tìm hiểu nicotine có thể hấp thụ bao nhiêu phần vào quần áo và da sau khi tiếp xúc với thuốc lá, 6 nhà nghiên cứu ở Anh đã ngồi trong một căn phòng đầy khói thuốc lá 5 giờ. Nồng độ nicotine trong phòng tương đương trong các quán rượu cho phép hút thuốc ở Anh.
Bốn nhà nghiên cứu chỉ mặc quần đùi, hai người kia mặc quần áo sạch. Hai tuần sau, nhóm hai người quần áo sạch thay lại bộ đã họ mặc trước đó, trong khi 4 người còn lại tắm ngay sau thí nghiệm.
Các nhà khoa học nghĩ rằng da tạo một rào cản tốt chống lại nicotine, nhưng nghiên cứu này cho thấy da có thể hấp thụ nicotine từ khói thuốc lá ở mức tương tự nồng độ khi hít qua phổi. Chất này mất vài ngày để giải phóng khỏi cơ thể. Tắm ngay sau khi tiếp xúc với khói thuốc hay thay quần áo ngay có thể làm giảm nồng độ nicontine hấp thụ vào da.
Tự uống máu của mình
16 tình nguyện viên khỏe mạnh uống 100 đến 300 ml máu của chính mình với mục đích tìm ra phương pháp chẩn đoán bệnh viêm ruột (IBD) và viêm loét dạ dày tá tràng.
Sau mỗi lần uống, các nhà nghiên cứu đo nồng độ một loại protein tên calprotectin xuất hiện trong phân khi có viêm nhiễm đường tiêu hóa. Họ xác định máu trong đường tiêu hóa là lý do gây tăng calprotectin nhẹ ở phân. Nồng độ calprotectin cao có thể khiến người bệnh bị bệnh viêm ruột.
Tự nội soi đại tràng cho bản thân
Akira Horiuchi, bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa đã tự thực hiện nội soi đại tràng cho bản thân để chứng minh nội soi đại tràng thực sự không đau và đáng sợ.
Nội soi đại tràng được thực hiện khi bệnh nhân nằm nghiêng một bên và sử dụng ống nội soi cỡ to và dày. Tuy nhiên, Horiuchi sử dụng máy nội soi nhi khoa hoặc một ống mỏng, sáng, để thực hiện xét nghiệm khi đang ở tư thế ngồi.
Nhà khoa học thực hiện thủ thuật này 4 lần trong vòng hai tháng. Ông sử dụng phương pháp vệ sinh và nội soi như nhau nhưng cảm giác khó chịu các lần lại khác nhau. Có thể đây là lý do mỗi người cảm thấy đau khác nhau khi nội soi.
Tự cho ve vào tai của mình
Ve là loài sinh vật có khả năng gây nhiễm trùng nặng ở tai mèo và chó. Bác sĩ thú y Robert Lopez, Mỹ nhét ve từ một con mèo bị nhiễm trùng vào tai trái của mình để tìm hiểu chuyện gì xảy ra. Ngay lập tức, ông nghe thấy tiếng cào và di chuyển khi bọ ve khám phá ống tai của mình. Sau đó, Lopez ngứa dữ dội, những âm thanh cào lớn hơn khi những con ve tiến về phía màng nhĩ.
Lopez cho biết phải mất một tháng để hội chứng nhiễm trùng biến mất. Ông tiếp tục lặp lại thí nghiệm thêm hai lần nữa. Với lần nhiễm trùng tiếp theo, các triệu chứng trở nên ít nghiêm trọng hơn. Điều đó cho thấy Lopez đã phát triển khả năng miễn dịch đối với sinh vật này.
Hôn nhau để tìm ADN
Các nhà nghiên cứu ở Slovakia phát hiện DNA nam giới có thể tìm thấy trong nước bọt của phụ nữ 10 phút sau một lần hôn cuồng nhiệt và trong ít nhất 60 phút sau khi hôn.
Để thử nghiệm, 12 cặp đôi hôn nhau nồng nhiệt trong ít nhất hai phút. Các nhà khoa học đã kiểm tra nước bọt của người phụ nữ để lấy bằng chứng về DNA nam ngay lập tức và 5, 10, 30 phút sau khi các cặp dừng lại.
Các tác giả cho biết kết quả nghiên cứu này có thể áp dụng trong việc điều tra tội phạm. Việc thu thập nhanh chóng nước bọt của một người phụ nữ có thể là bằng chứng để xác định nghi phạm trong các trường hợp tấn công tình dục và hãm hiếp.
Cẩm Anh
Theo Live Science/VNE
Sinh con thuận tự nhiên: Đừng đẩy mình vào nghịch cảnh "kẻ giết con" ngay sau khi vừa vượt cạn Sinh con thuận tự nhiên chẳng khác gì đặt cược mạng sống của mẹ và bé chỉ để đổi lấy... không gì cả. Có một thực tế là trong khi tại Việt Nam và trên thế giới vẫn có biết bao nhiêu sản phụ đã mất mạng, mất con vì những biến chứng sau sinh mà không được y tế can thiệp kịp...