Những điểm đến hấp dẫn ở xứ Thanh
Không chỉ là vùng đất ‘địa linh nhân kiệt’, Thanh Hóa còn được biết đến với nhiều di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh hấp dẫn làm say lòng biết bao du khách.
Ở xứ Thanh, Sầm Sơn luôn là một trong những điểm đến lý tưởng. Ngay từ thời Pháp thuộc, Sầm Sơn đã được đánh giá là bãi biển tốt nhất ở Việt Nam bởi bờ cát mịn, sạch, thoai thoải kéo dài ra phía biển; sóng biển hiền hòa mang nồng độ mặn phù hợp với sức khỏe con người. Bên cạnh đó, thiên nhiên còn phú cho nơi đây những sắc màu lung linh huyền thoại trong quần thể thắng tích: một hòn Trống Mái tình tứ, lãng mạn ngự trên dãy Trường Lệ; một đền Độc Cước uy nghi thể hiện khát vọng hòa bình, chế ngự giặc dã… bảo vệ sự bình yên cho người dân xứ Thanh; một đền Cô Tiên chênh vênh trên vách núi, hữu tình mà ẩn chứa bao điều kì bí. Xa xa là những hòn Mê, hòn Nẹ… như muốn nhắc nhở mỗi chúng ta phải giữ gìn sự bình yên cho Tổ Quốc, quê hương.
Cái mặn mòi, quyến rũ của Sầm Sơn là những con sóng bạc đầu ôm bờ cát dài lấp lóa, là dãy Trường Lệ thuôn dài như người con gái đẹp lả lơi ngủ quên bên mép sóng, là những loại hải sản gom nhặt vị ngọt từ mặn chát của biển dâng đời và có cả trong men nồng của những buổi hoàng hôn bên biển. Đêm đến, những con sóng nối đuôi nhau, như cùng vỡ òa vào niềm vui hội ngộ. Tiếng reo trắng xóa ập vào bờ bãi.
Một góc sân golf 18 hố ven biển FLC Golf Links Sam Son (Ảnh: Tô Nghiêm Trang ).
Dù hơn 100 năm tuổi, nhưng Sầm Sơn mang sức trẻ của một cô gái đôi mươi. Tất cả đều căng tràn nhựa sống! Một khu nghỉ dưỡng đẳng cấp quốc tế, một sân golf 18 lỗ hạng links đẳng cấp nhất Việt Nam và khu vực, cùng hàng trăm khách sạn, nhà hàng cao cấp… đã bừng lên sắc thắm, chào gọi: Về nhé… Sầm Sơn!
Không chỉ có Sầm Sơn, xứ Thanh còn có một Nghi Sơn dịu dàng, tươi mới. Ngoài bãi biển Hải Hòa (Phường Hải Hòa) thơ mộng, còn có một Bãi Đông (xã Nghi Sơn) hoang sơ, yên bình mà duyên dáng. Tất cả được tạo nên từ màu xanh trong của nước biển, dải cát trắng mịn màng trải dài cùng những con sóng hiền hòa và rặng phi lao rì rào trước gió… Đến đây du khách có thể trải mình trong khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, ngắm nhìn bình minh hay hoàng hôn trên biển, được hòa mình với không gian yên bình của người dân bản địa…
Là một tỉnh có 102 km đường bờ biển, Thanh Hóa còn nổi tiếng bởi một biển Hải Tiến khác lạ. Biển Hải Tiến thuộc địa phận 4 xã: Hoằng Hải, Hoằng Tiến, Hoằng Thanh và Hoằng Trường (huyện Hoằng Hóa). Bãi biển Hải Tiến thoai thoải dài, ẩn chứa nét hoang sơ, cảnh quan tự nhiên hấp dẫn. Nơi đây thu hút du khách nhờ biển xanh, cát trắng, nắng vàng cùng những rặng dừa xanh, rừng phi lao bát ngát. Đây là nơi lý tưởng để bạn khám phá, tận hưởng những giây phút thư giãn thoải mái, những món hải sản độc đáo, tươi ngon sau những ngày làm việc mệt nhọc.
Song song với du lịch biển, đến xứ Thanh người ta còn rỉ tai nhau về một Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông hùng vĩ chẳng hề kém cạnh Hà Giang, Sa Pa hay Tây Bắc,… Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông (thuộc địa phận huyện Bá Thước và huyện Quan Hóa), nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Thanh, cách TP Thanh Hóa 130 km. Cách Thị Trấn Cành Nàng (huyện Bá Thước) khoảng 20km và cách Hà Nội khoảng 178 km theo hướng Tây Bắc.
Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông được thành lập năm 1999, với diện tích 17.662 ha, gồm 13.320 ha phân khu bảo vệ nghiêm ngặt và 4.343 ha phân khu phục hồi sinh thái. Pù Luông là tên gọi của đồng bào dân tộc Thái có nghĩa là đỉnh núi cao nhất trong vùng. Pù Luông được đánh giá là khu bảo tồn thiên nhiên có giá trị về khoa học, kinh tế xã hội và du lịch sinh thái. Cùng với Pù Hu, rừng ở khu vực Pù Luông đóng vai trò quan trọng trong việc phòng hộ đầu nguồn sông Mã.
Đến với Pù Luông, du khách được ngắm nhìn vẻ đẹp hoang sơ với những bản làng nhỏ bao quanh bởi ruộng bậc thang xanh mướt, cánh rừng nguyên sinh xen lẫn núi non trùng điệp, suối chảy rì rào, dòng thác hùng vĩ mát rượi. Với những góc máy rộng, chụp từ trên cao xuống chắc chắn bạn sẽ lưu lại được những tấm hình đẹp nhất cùng thiên nhiên Pù Luông. Bước vào mùa lúa chín, tất cả ruộng bậc thang phủ một lớp áo vàng óng ánh đẹp mê hồn.
Video đang HOT
Cách TP Thanh Hóa khoảng 36 km về phía Tây Nam, xứ Thanh còn có Vườn quốc gia Bến En nổi tiếng. Nơi đây được ví như “Hạ Long trên cạn”, mang vẻ đẹp hoang sơ bởi màu xanh bạt ngàn của rừng, cùng mây nước lung linh khoe sắc… Nằm trải dài giữa hai huyện Như Xuân và Như Thanh, Vườn quốc gia Bến En được thành lập vào năm 1992, có tổng diện tích là 14.735 ha, trong đó rừng nguyên sinh là 8.544 ha. Vườn quốc gia Bến En có địa hình nhiều đồi núi, có nhiều sông, suối. Yếu tố tạo điểm nhấn cho bức tranh thiên nhiên nơi đây là hồ nước rộng gần 3.000 ha và 21 hòn đảo, bán đảo được bao quanh bởi ba cánh cung núi đá, núi đất và rừng.
Đến với Bến En, bạn sẽ có cảm giác lạc vào thế giới thần tiên với sông nước mây trời hư ảo, bởi khung cảnh thiên nhiên thơ mộng. Ở đây, bốn mùa mặt hồ luôn xanh biếc, tĩnh lặng và đặc biệt vùng đất này cũng còn lưu giữ nhiều truyền thuyết ly kỳ hấp dẫn du khách…
Không chỉ có núi, có biển, Thanh Hóa còn nổi tiếng bởi di tích Thành Nhà Hồ (hay còn gọi là thành Tây Đô, thành An Tôn, thành Tây Kinh hay thành Tây Giai), là kinh đô nước Đại Ngu (quốc hiệu Việt Nam thời nhà Hồ), nằm ở huyện Vĩnh Lộc. Đây là tòa thành kiên cố với kiến trúc độc đáo bằng đá có quy mô lớn hiếm hoi ở Việt Nam, có giá trị và độc đáo nhất, duy nhất còn lại ở Đông Nam Á và là một trong rất ít những thành lũy bằng đá còn lại trên thế giới. Thành được xây dựng trong thời gian ngắn, chỉ khoảng 3 tháng (từ tháng Giêng đến tháng Ba năm 1397) và cho đến nay, dù đã tồn tại hơn 6 thế kỷ nhưng một số đoạn của tòa thành này còn lại tương đối nguyên vẹn.
Ngày 27 tháng 6 năm 2011, Thành nhà Hồ đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 62 di tích quốc gia đặc biệt.
Trên vùng đất Vĩnh Lộc, cách Thành Nhà Hồ không xa còn có quần thể Danh thắng Kim Sơn (xã Vĩnh An) gồm: núi, hang động và hồ nước… đã tạo nên một cảnh trí đặc sắc đẹp đến nao lòng. Là một vùng danh thắng nguyên sơ mang vẻ đẹp của tạo hóa, được thiên nhiên ban tặng hệ thống núi đá vôi với 29 ngọn núi kết thành một quần thể tựa “tiên sơn linh mẫu”… đã để lại cho xứ Thanh một Danh thắng Kim Sơn kỳ thú.
Ngoài động Kim Sơn, còn có Động Tiên Sơn – hang động được ví von như “tiên động trên núi”. Phải vượt qua hơn 200 bậc đá uốn lượn với độ cao hơn 50 m mới lên được động. Từ trên cao, quần thể danh thắng Kim Sơn được hiện lên như một bức tranh sơn thủy hữu tình. Bước chân vào động, một khối thạch nhũ to lớn, lấp lánh vàng có hình thù của Quan thế âm Bồ tát ngự trên đài sen to rộng, với chiều cao hơn 20m, mặc áo cà sa ánh vàng lấp lánh. Cùng hàng ngàn khối thạch nhũ lớn nhỏ với những hình thù khác nhau… Với cảnh quan thiên nhiên sơn thủy hữu tình, thắng tích Kim sơn – Tiên Sơn hứa hẹn sẽ mang đến cho du khách thập phương một điểm dừng chân đầy thú vị.
Trên vùng đất “địa linh nhân kiệt”, còn có những hang động mang màu sắc huyền thoại, hư hư, thực thực… Được xem là một trong những hang động đẹp nhất xứ Thanh, động Từ Thức hay còn gọi là động Bích Đào (xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn) đã thu hút nhiều du khách bởi màu sắc lung linh, huyền ảo như chính câu chuyện tình của chàng Từ Thức gặp nàng tiên Giáng Hương lưu truyền trong dân gian.
Động Từ Thức nằm trên dãy núi Tam Điệp hùng vĩ, tiếp giáp với huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Động nằm trên sườn một ngọn núi đá nhỏ, xung quanh là cánh đồng lúa xanh ngút ngàn, dài khoảng 200m, rộng hàng nghìn m2, vòm hang chỗ cao nhất chừng 40 m. Khung cảnh bên trong và xung quanh động vẫn còn giữ được nét hoang sơ và thơ mộng. Từ dưới chân núi, du khách chỉ cần leo hơn 100 bậc thang được làm bằng bê tông là đến cửa động. Quãng đường này cây cối bao phủ, những bộ rễ cây thuộc họ dây leo quấn quanh lối đi, thậm chí du khách còn có thể ngồi lên rễ cây tựa như ngồi võng.
Động được thiên nhiên ban tặng cho nhiều nhũ đá, người dân địa phương đã tưởng tượng ra những câu chuyện thần tiên gắn với từng mảng thạch nhũ khiến người nghe như bị mê hoặc. Dưới ánh điện màu càng làm cho hang núi thêm lung linh huyền ảo. Từ đầu đến cuối động du khách sẽ được chiêm ngưỡng tầng tầng, lớp lớp thạch nhũ lóng lánh sắc màu gợi lên những hình ảnh gắn liền với tình yêu của nàng tiên Giáng Hương và Từ Thức.
Ngay trong lòng TP Thanh Hóa, bao năm qua, cây cầu Hàm Rồng lịch sử vẫn hiên ngang, sừng sững chứng kiến sự đổi thay, phát triển của vùng đất xứ Thanh. Nơi đây đã từng là một trong những trọng điểm của cuộc đấu tranh đánh phá ác liệt của Mỹ. Các đơn vị bảo vệ cầu đã chiến đấu hàng trăm trận, bắn rơi hơn 100 máy bay các loại. Không quân Việt Nam tại đây bắn rơi 4 máy bay Mỹ. Trung đoàn pháo phòng không 228 bảo vệ cầu Hàm Rồng đã bắn rơi 90 máy bay, được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân và được mang tên Đoàn Hàm Rồng… Sau bao biến cố thăng trầm, cầu Hàm Rồng vẫn hiền hòa vắt mình qua dòng sông Mã thơ mộng, trở thành chiếc cầu lưu thông, đồng thời là địa điểm du lịch, check-in lưu giữ kỷ niệm cho những ai đặt chân đến vùng đất này…
Thanh Hóa hiện có hơn 1.500 di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, đây là một trong những điểm đến hấp dẫn không thể bỏ qua của du khách khi về với xứ Thanh.
Những thắng tích tiêu biểu của xứ Thanh
Thanh Hóa là một trong những cái nôi của văn hóa dân tộc. Điều kiện lịch sử, tự nhiên đã tạo tiền đề cho xứ Thanh sớm trở thành một vùng thắng tích tiêu biểu.
Di tích trên đất Thanh Hóa phân bổ trên diện rộng, từ vùng ven biển, núi cao đến khu vực chuyển tiếp đồng bằng với vùng núi và đồng bằng châu thổ tạo nên một vùng thắng tích nổi bật nơi địa đầu "khúc ruột miền Trung", cửa ngõ phía Nam châu thổ sông Hồng. Thắng tích Thanh Hóa là sự kết hợp hài hòa di sản thiên nhiên và sự sáng tạo của bàn tay con người khiến cho thiên nhiên nơi đây đậm tính nhân văn.
Xứ Thanh có rừng, có biển, có đồng bằng châu thổ rộng lớn, sự đa dạng về tự nhiên đã tạo nên nhiều cảnh quan hùng vĩ, tươi đẹp như: cửa Thần Phù (Nga Sơn), biển Sầm Sơn (thành phố Sầm Sơn), Lạch Bạng (Tĩnh Gia), núi Hàm Rồng (thành phố Thanh Hóa), núi Nưa (Triệu Sơn), Pù Luông (Bá Thước - Quan Sơn)... Trong đó Sầm Sơn và Pù Luông tiêu biểu cho "Biển bạc rừng vàng" của Thanh Hóa.
Trong hệ thống cảnh quan bãi biển cửa sông của Việt Nam, Sầm Sơn (thành phố Sầm Sơn - Thanh Hóa) được xem là một bãi biển lý tưởng. Các nhà khoa học khi nghiên cứu về môi trường sinh thái đã tiến hành phân tích, đối chiếu, so sánh các thông số: độ mịn của cát, hàm lượng muối trong nước biển, chế độ thủy triều, độ dốc của bãi biển, các chỉ số về sóng, gió, ánh sáng mặt trời... đã đi đến kết luận: Sầm Sơn có những ưu điểm vượt trội so với các bãi biển khác trên dải đất hình chữ S, mỗi năm thu hút hàng vạn khách thập phương.
Sầm Sơn không chỉ là nơi nghỉ mát mà còn là đểm du lịch sinh thái đậm tính văn hóa. Núi Sầm với mũi Cổ Dải dầm chân trong nước biển, vươn dài ra biển khơi đã tạo nên một "hòn non bộ" khổng lồ. Trên "hòn non bộ" đó là không ít tạo vật đặc sắc, trong đó "hòn Trống Mái" được "thợ trời" tạo dựng là điểm sáng của non nước nơi đây.
Danh thắng Sầm Sơn nhìn từ trên cao.
Cùng với cảnh quan tự nhiên, trên núi Trường Lệ còn có những di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng như đền thờ thần Độc Cước trên đỉnh hòn Cổ Dải, đền thờ Thái Úy nhà Lý Tô Hiến Thành, đền Cô Tiên và đặc biệt là nơi Bác Hồ đã cùng ngư dân Sầm Sơn kéo lưới đánh cá. Địa điểm này đã trở thành di tích kỷ niệm về vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.
Miền núi xứ Thanh có nhiều cảnh quan thiên nhiên hùng vỹ. Trong đó Pù Luông được ví như "Sa Pa của khu vực Bắc miền Trung". Pù Luông nằm ở điểm cực Bắc của huyện vùng cao Bá Thước thuộc địa phận hai xã Thành Sơn (huyện Bá Thước) và Phú Xuân (huyện Quan Hóa), trong không gian của vùng giáp ranh ba tỉnh: Thanh Hóa - Sơn La - Hòa Bình. Pù Luông nằm trong hệ thống núi Tây-Bắc Việt Nam, kéo dài từ Sơn La, qua Hòa Bình đến miền Tây Thanh Hóa, theo hướng Đông chạy tới biển. Tự nhiên đã kiến tạo ở đây một thắng tích "thống nhất đa dạng" của vùng sinh thái đa tạp.
Pù Luông hội tụ các núi đá vôi cao nhất trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa với nhiều đỉnh cao từ trên 800 mét đến 1.000 mét. Đỉnh Pù Luông cao nhất: 1.587 mét so với mực nước biển. Nhiều núi đá vôi đã biến chất, tạo thành các "bông hoa đá" đa dạng về màu sắc. Quá trình phong hóa và kiến tạo địa chất phức tạp không chỉ tạo cho Pù Luông địa hình hiểm trở, ngoạn mục, mà còn tạo nên những thềm bậc xen giữa các khoảng núi đá, từ đó hình thành các bản người Thái, người Mường.
Pù Luông nằm trong không gian và hệ sinh thái kéo dài từ Mai Châu (Hòa Bình) nối với Khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn và Vườn Quốc gia Cúc Phương tạo thành "liên khu sinh thái" Pù Luông-Cúc Phương, được đánh giá là mẫu quan trọng mang tính toàn cầu về hệ sinh thái Karst, là khu vực đất thấp duy nhất còn lại rừng sinh cảnh núi đá vôi ở miền Bắc Việt Nam. Đây là khu vực núi đá vôi rộng nhất trên đất nước ta, một điển hình về hệ sinh thái núi đá vôi.
Pù Luông có 598 loài động vật thuộc 150 họ có xương sống, trong đó có 51 loài quý hiếm (gồm 26 loài thú, 5 loài dơi, 6 loài chim, 5 loài cá nước ngọt, 6 loài bò sát). Trong số này có tới 36 loài được ghi trong sách đỏ của Việt Nam và thế giới, đặc biệt có tới 13 loài bị đe dọa tuyệt chủng trên phạm vi toàn cầu. Hệ thực vật ở Pù Luông hết sức đa dạng với các cây "siêu cổ thụ" cho đến các loại gỗ quý hiếm gần như chỉ còn sót lại trong rừng già ẩm ướt, quanh năm thiếu ánh mặt trời. Rừng nguyên sinh ở Pù Luông là loại rừng kín nhiệt đới, lá xanh theo mùa gồm: rừng lá rộng đất thấp trên núi đá vôi, rừng lá rộng trên các phiến thạch, sa thạch, đất sét... rừng lá rộng chân núi đá vôi, rừng lá kim châm núi đá vôi và rừng lá rộng chân núi ba-zan.
Trong các dãy núi đá vôi có nhiều hang động: hang Kho Mường, hang Dơi, hang Pó Mường là những hang rộng, thoáng có nhiều nhũ đẹp rất thuận lợi cho hoạt động của người nguyên thủy. Nếu tiến hành điều tra khảo cổ học có thể phát hiện dấu tích cư trú của con người thời tiền sử như động Người Xưa ở Vườn Quốc gia Cúc Phương.
Các bản người Thái, người Mường trong không gian Pù Luông có lịch sử lâu đời, còn bảo lưu nhiều văn hóa vật thể, phi vật thể truyền thống. Có thể xem địa điểm cư trú của đồng bào thiểu số là "bảo tàng dân tộc học" cho việc nghiên cứu văn hóa tộc người trong điều kiện những "hóa thạch văn hóa" ít bị tác động từ bên ngoài. Bởi vậy nơi đây đang được kiến tạo thành điểm du lịch, nghỉ mát. Những điểm dừng chân đầu tiên trên hành trình đã hình thành ở Son Bá Mười (xã Lũng Cao) và đỉnh Pù Luông (xã Thành Sơn, huyện Bá Thước) thu hút nhiều khách du lịch.
Thành Nhà Hồ (còn gọi là thành Tây Đô) là một trong những di sản văn hóa Việt Nam được UNESCO vinh danh. Thành được Nhà Hồ xây dựng trên địa bàn hai xã: Vĩnh Long và Vĩnh Tiến thuộc huyện Vĩnh Lộc. Thành có nhiều tên gọi khác nhau: Khởi đầu là Thành An Tôn, rồi Thành Nhà Hồ, Thành Tây Giai, Thành Tây Đô... Đến nay, tòa thành đá vĩ đại đã đi vào từ điển văn hóa nhân loại với tên gọi Thành Tây Đô.
Thành Tây Đô ở Tây-Bắc tỉnh Thanh Hóa, trong không gian chuyển tiếp từ vùng núi xuống đồng bằng mang dấu ấn của vùng châu thổ sông Mã. Thành được xây dựng vào cuối thế kỷ XIV (năm 1397) do Hồ Quý Ly - nhân vật lịch sử có sự gắn bó, am tường vùng đất, có ý chí, tham vọng, nắm quyền gần như cao nhất trong triều đình nhà Trần chỉ đạo xây dựng.
Trong lịch sử thành cổ Việt Nam, Tây Đô không phải là tòa thành được xây dựng sớm nhất, có quy mô lớn nhất nhưng được tiếp thu, kế thừa những giá trị truyền thống và phát triển cao hơn, là điển hình cho tư duy sáng tạo của người Việt Nam. Thành gồm hai vòng: Thành nội và Thành ngoại. Thành ngoại chủ yếu dựa vào tự nhiên, liên kết các dải đồi thấp, đê sông và sự hợp dòng của sông Bưởi với sông Mã tạo thành hệ thống phòng ngự vòng ngoài. Thành nội có hình vuông, lệch nhau khoảng 3 mét (chiều Bắc - Nam 860 mét, chiều Đông - Tây 863 mét).
Thành có 4 cửa theo 4 hướng: Đông-Tây-Nam-Bắc. Ba cửa Đông, Tây, Bắc là loại cửa đơn, riêng cửa Nam (cửa tiền) có 3 lối đi vào, lối giữa dành cho vua, hai bên dành cho bá quan văn võ. Các cửa thành được xây dựng theo kiểu cuốn vòm bằng các khối đá lớn hình chữ nhật, vuông thành sắc cạnh, mài nhẵn, ghép khít vào nhau. Các khối đá cuốn vòm cửa được đẽo thành hình "múi bưởi" để tăng độ chịu lực và tạo vòm cho cửa. Đá xây thành có kích thước, trọng lượng lớn, có khối nặng tới hơn 10 tấn. Trong điều kiện lao động thủ công thời bấy giờ, việc khai thác, vận chuyển, lắp đặt lên cao là công việc rất mệt nhọc, đòi hỏi óc sáng tạo của người chỉ huy. Nhiều vấn đề về kỹ thuật, mỹ thuật xây dựng thành đến nay vẫn còn là bí ẩn chờ được giải mã.
Thành nội được đắp bằng đất trộn đá cuội nhỏ, phía ngoài được bao bởi các khối đá lớn. Nét đặc biệt của tường thành là việc dùng đá khối lớn hình chữ nhật vuông vắn có khối lượng đồ sộ, trung bình nặng từ 6-8 tấn, cá biệt có khối hơn 20 tấn xây phía ngoài của tường thành. Học giả nước ngoài khi nghiên cứu về tường thành đã phải thốt lên: Thành Tây Đô là mẫu mực về việc sử dụng những khối đá to lớn được đẽo gọt và ghép một cách tài tình. Quy mô tòa thành cho thấy đã có hàng triệu khối đất, đá được đào đắp, khai thác, vận chuyển đến để xây dựng thành. Kỳ tích này được hoàn thành trong "thời gian huyền thoại"- 3 tháng.
Cách thành nội khoảng 50 mét là hệ thống hào thành bao quanh. Hào thành vừa là thành tố "thành cao, hào sâu" của kiến trúc thành cổ vừa có tác dụng điều hòa môi trường trong mùa nóng và thoát nước khi kinh thành vào mùa mưa. Trong nội thành vẫn lưu giữ dấu tích quần thể kiến trúc hai vương triều Trần và Hồ.
Trong không gian Thành Tây Đô còn là các công trình khác như đàn tế Nam Giao, xưởng đúc tiền, làng hoa cùng mạng lưới đường xá được xây dựng trong quá trình đô thành hóa khu vực.
Xứ Thanh còn rất nhiều di sản văn hóa được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia tiêu biểu là di tích Lam Kinh. Lam Kinh được xếp hạng trong đợt đầu của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đến nay được nâng cấp thành Di tích quốc gia đặc biệt.
Quần thể kiến trúc Lam Kinh thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân (nay thuộc thị trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân). Di tích có liên quan đến dòng họ Lê Lợi từ khi dựng nghiệp, là cái nôi của khởi nghĩa Lam Sơn và cũng là Lam Kinh - Tây Kinh của quốc gia Đại Việt. Lam Kinh hội tụ những giá trị tiêu biểu về lịch sử - văn hóa vùng đất Lam Sơn và vương triều Hậu Lê từ buổi sáng nghiệp đến thời Trung hưng trong "Kỳ nhà Lê".
Không gian văn hóa vùng núi Lam là nơi tiến hành các lễ hội văn hóa truyền thống hàng năm với nhiều lễ thức, diễn xướng nhằm tôn vinh, tưởng nhớ công đức của anh hùng dân tộc Lê Lợi trong sự nghiệp bình Ngô. Lễ hội Lam Sơn được tiến hành 3 ngày, từ 21 đến 23 tháng 8 âm lịch là lễ hội văn hóa - lịch sử lớn nhất xứ Thanh.
Trung tâm di sản Lam Kinh là khu điện miếu Lam Kinh, đền thờ, lăng mộ các vị vua triều Lê sơ. Khu điện miếu gồm: hồ bán nguyệt, nghi môn, sân điện, tòa đại điện Diên Khánh, tòa Thái miếu và các công trình có liên quan đến chính điện Lam Kinh... được xây dựng trong nhiều năm, từng bước hoàn thiện trong triều Lê sơ trở thành kinh đô thứ hai (Tây Kinh) của vương triều Hậu Lê. Các công trình này không chỉ tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc, mỹ thuật thời Lê sơ mà còn phản ánh bước chuyển của mỹ thuật truyền thống dân tộc từ thời Trần sang thời Lê và quá trình dân gian hóa nghệ thuật trong thời Lê Trung Hưng.
Cũng với điện miếu là các lăng mộ, bia ghi công đức của các vị Hoàng đế, Hoàng hậu của vương triều như lăng Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Lê Túc Tông, Hoàng Thái Hậu Ngô Thị Ngọc Dao... Các khối bia cùng tượng quan hầu, tượng thú dựng ở các lăng được xem là những tác phẩm điêu khắc có giá trị mang dấu ấn nghệ thuật Lê sơ.
Song song với việc tôn tạo khu điện miếu, lăng mộ... một bảo tàng Lam Sơn cũng được xây dựng. Cung điện, lầu son gác tía xưa, nay đang được đầu tư tôn tạo để xứng đáng là khu di tích đặc biệt quan trọng, điểm đến hấp dẫn của các tour du lịch xuyên Việt.
Vùng thắng tích Thanh Hóa với những di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu phản ánh chiều sâu văn hóa, bề dày lịch sử là tài sản vô giá của dân tộc.
Khám phá những homestay xinh đẹp tại Hòa Bình Với cảnh quan xanh mát, không gian yên bình và những điểm du lịch cộng đồng ấm cúng tại nhà sàn, khu vực Đà Bắc - Hòa Bình là điểm đến lý tưởng gần Hà Nội cho một chuyến đi chơi dịp cuối tuần. Homestay là sản phẩm hấp dẫn du khách tại Đà Bắc, Hòa Bình Cách Hà Nội khoảng 120km, Đà...