Những dấu mốc đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam
Đơn vị Hải quân đầu tiên được hình thành trước ngày khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hai máy bay của vua Bảo Đại là phương tiện đầu tiên của Không quân Việt Nam.
Nhân ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944), VnExpress điểm lại một số dấu mốc đầu tiên của quân đội có thể nhiều người chưa biết.
Đơn vị hải quân Việt Nam đầu tiên
Ít người biết ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, quân đội Việt Nam đã có một bộ phận hải quân nhỏ và lập được những chiến công đầu tiên. Theo cuốn Lịch sử Hải quân Việt Nam, cuối tháng 8/1945, tại Hải Phòng, Bộ Tư lệnh khu Duyên hải đã tổ chức Ủy ban Hải quân Việt Nam với quân số gần 200, trong đó tiêu biểu là Đại đội Ký Con, phương tiện là một số tàu nhỏ và 3 canô thu được của Pháp. Các tàu nhỏ được đổi tên thành Bạch Đằng, Giao Chỉ.
Với cách đánh du kích, Đại đội Ký Con đã lập được một số chiến công ở cửa biển Hải Phòng và vùng ven biển Đông Bắc. Trận đánh đầu tiên được lịch sử hải quân Việt Nam ghi lại là đánh tàu Crayssac tại vùng biển Hòn Gai đầu tháng 9/1945.
Theo lệnh Khu trưởng chiến khu Duyên hải Nguyễn Bình (sau được phong là Trung tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam), đại đội Ký Con dùng hai tàu Bạch Đằng, Giao Chỉ và một canô, với một trung đội bộ đội phối hợp với các thuyền đánh cá của nhân dân tiến ra vây bắt tàu địch. Trước sức ép của quân dân, tàu Crayssac phải đầu hàng, chỉ huy và các thủy thủ người Pháp bị bắt làm tù binh, nhiều binh sĩ người Việt tình nguyện tham gia cách mạng.
Tàu Crayssac được trang bị một khẩu pháo 37 mm, 2 trọng liên, 2 đại liên, một bazoka, 2 súng carbin cùng một số súng trường. Ngày 8/9/1945, Khu trưởng Nguyễn Bình đã đến thăm con tàu chiến lợi phẩm, ra lệnh gỡ biển tên tàu, gắn chữ Ký Con bằng đồng vào mũi tàu, biên chế con tàu vào lực lượng vũ trang chiến khu Duyên hải (sau là chiến khu 3).
Sau đó, quân Pháp đưa tàu Audacieuse đến vùng biển Hòn Gai để tìm kiếm tàu Crayssac. Quân khu Duyên hải dùng ngay tàu Ký Con để đánh đuổi và chiếm được tàu Audacieuse, bắt 8 sĩ quan và thủy thủ, thu một đại liên, một bazoka và một số vũ khí trang bị khác. Đến ngày 12/9/1945, hai tàu Ký Con, Audacieuse cùng một số canô được tổ chức thành một thủy đội thuộc Ủy ban Hải quân Việt Nam, làm nhiệm vụ tuần tiễu vùng ven biển từ Hòn Gai đến Hải Phòng.
Đơn vị pháo binh đầu tiên
Từ những khẩu pháo thu của quân đội Pháp, đơn vị pháo binh đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập. Ngày 29/6/1946, tại sân Vệ Quốc đoàn Trung ương (trại 40 Hàng Bài), Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt Nam Hoàng Văn Thái đọc Quyết định thành lập Đoàn pháo binh Thủ đô gồm 3 trung đội: Pháo đài Láng, Pháo đài Xuân Tảo và Pháo đài Xuân Canh (nay thuộc huyện Đông Anh). Đây chính là nền móng để xây dựng lực lượng pháo binh Việt Nam sau này.
Đến tháng 9/1946, Tổng Tham mưu trưởng quyết định thành lập thêm Trung đội Pháo đài Thổ Khối (huyện Gia Lâm), nằm bên tả ngạn sông Hồng, đồng thời thành lập Đại đội Pháo binh Thủ đô, thống nhất chỉ huy 4 trung đội pháo đài. 29/6/1946 trở thành ngày truyền thống của Pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam.
Khẩu pháo 57 ly được lưu giữ tại di tích lịch sử Pháo đài Láng. Ảnh: Võ Hải.
Theo Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam, các pháo đài Láng, Xuân Tảo, Xuân Canh do quân Pháp xây dựng vào năm 1940, đặt các khẩu pháo phòng không 57 ly nhằm phòng thủ cho thành phố Hà Nội trước nguy cơ bị không quân Nhật tấn công.
Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp, các pháo đài này bị quân Nhật chiếm. Sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, tất cả cơ sở quân sự ở miền Bắc được bàn giao cho quân đội Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch. Khi quân Tưởng rút, quân và dân Việt Nam tiếp nhận pháo đài. Do thiếu pháo thủ, một số thanh niên làng Láng được gọi tăng cường, nhanh chóng làm chủ kỹ thuật.
Pháo đài Láng chính là nơi nổ phát súng đầu tiên phát hiệu lệnh toàn quốc kháng chiến lúc 20h03 ngày 19/12/1946. Ngay sau đó, các pháo đài Xuân Canh, Xuân Tảo cũng lập tức nổ súng, dùng các khẩu pháo phòng không để đổi cách bắn, rót đạn xuống các doanh trại của quân Pháp đóng trong thành cổ Hà Nội.
Sau đó 2 ngày, ngày 21/12/1946, Pháo đài Láng tiếp tục lập chiến công bằng việc bắn rơi chiếc máy bay đầu tiên của quân Pháp trong cuộc kháng chiến kéo dài tới 9 năm sau đó. Các pháo thủ pháo đài Láng đã bắn máy bay bằng cách ngắm bắn trực tiếp do không có máy ngắm. Với thành tích này, Trung đội pháo binh Pháo đài Láng đã được Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp gửi thư khen ngợi.
Đến tháng 1/1947, sau khi thành công trong việc kìm chân quân đội Pháp trong thành phố Hà Nội suốt hai tháng, các đơn vị pháo binh ở pháo đài Láng được lệnh rút lên chiến khu. Do các khẩu pháo nặng nề không thể di chuyển được, các pháo thủ đã tháo quy lát của pháo mang đi chôn giấu.
Hiện nay, một khẩu pháo 57 ly còn được lưu giữ tại di tích lịch sử Pháo đài Láng, tại con phố cùng tên ở phường Láng Trung, quận Đống Đa, Hà Nội.
Máy bay đầu tiên
Video đang HOT
Dù mãi đến năm 1955, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam mới quyết định thành lập Ban Nghiên cứu sân bay, tiền thân của lực lượng không quân hiện nay, tuy nhiên từ ngay sau cách mạng tháng 8, quân đội Việt Nam đã có những chiếc máy bay đầu tiên.
Theo cuốn Lịch sử không quân nhân dân Việt Nam, đó là hai máy bay riêng của vua Bảo Đại, sau khi thoái vị đã hiến cho chính phủ lâm thời. Cả hai đều là máy bay 2 chỗ ngồi, gồm một chiếc Tiger Moth (2 tầng cánh, do Anh sản xuất) và Morane Saulnier (một tầng cánh, do Pháp sản xuất).
Hai máy bay được tháo cánh và bí mật chở bằng tàu hỏa từ Huế ra Bắc rồi chuyển về cất ở sân bay Tông (Sơn Tây) vào đầu năm 1946. Khi đó sân bay Bạch Mai và Gia Lâm đang bị quân đội Tưởng Giới Thạch chiếm giữ.
Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, hai chiếc máy bay tiếp tục được tháo rời, chuyển bằng thuyền lên Bình Ca, rồi lên Soi Đúng (Tuyên Quang). Trong quá trình vận chuyển, bị máy bay Pháp phát hiện và bắn phá, cả hai máy bay bị hư hỏng ít nhiều.
Học viên Lớp hàng không đầu tiên của quân đội Việt Nam bên chiếc máy bay Morane của vua Bảo Đại. Ảnh tư liệu.
Ngày 9/3/1949, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam, đã ra quyết định thành lập Ban Nghiên cứu Không quân thuộc Bộ Quốc phòng, sau chuyển sang Bộ Tổng Tham mưu, do ông Hà Đổng, làm Trưởng ban, với nhân sự gồm một số kỹ thuật viên và phi công là hàng binh người châu Âu.
Sau quá trình chuẩn bị đường băng là bãi trồng ngô dài 400 m, rộng 25 m tại Soi Đúng, tả ngạn sông Gâm, cách thị trấn Chiêm Hóa, Tuyên Quang 10 km về phía nam, máy bay được lệnh chuẩn bị bay thử. Xăng dầu cho máy bay được chuyên chở bằng thùng phuy từ Cao Bằng về. Ban Nghiên cứu đã quyết định chọn chiếc Tiger Moth để bay.
Chiều 15/8/1949, phi công Nguyễn Đức Việt, hàng binh gốc Đức, tên thật là Verner Schulze, đã cùng ông Nguyễn Văn Đống, Trưởng ban Cơ khí cất cánh bay lần đầu tiên. Máy bay chỉ bay được vài trăm mét, sau đó đâm xuống sông Gâm, ông Đống bị thương nhẹ. Chiếc máy bay sau đó được cán bộ Ban Nghiên cứu cùng bà con lội ra sông, tháo từng bộ phận, đem về cất giấu.
Đây là mốc lịch sử quan trọng của Không quân nhân dân Việt Nam, lần đầu tiên máy bay mang cờ đỏ sao vàng bay trên vùng trời Tổ quốc.
Ông Verner Schulze, sinh năm 1920 nguyên là phi công trong quân đội Đức bị quân Pháp bắt làm tù binh và bắt buộc tham gia đội quân lê dương tại Việt Nam. Được sự móc nối của cán bộ Việt Minh, ông bỏ hàng ngũ quân Pháp tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ông trở về Đức sinh sống.
(Theo VnExpress)
Vì sao Quân đội Nhân dân Việt Nam được đánh giá mạnh thứ 6 châu Á, thứ 17 Thế giới?
Theo cập nhật mới nhất năm 2016, trang thống kê quân sự thế giới Global Firepower (GFP) với chỉ số sức mạnh GFP Index đã xếp Quân đội Nhân dân Việt Nam ở vị trí thuộc top các lực lượng quân đội mạnh hàng đầu Thế giới. Cùng Vntinnhanh điểm qua các con số thống kê đáng chú ý được GFP sử dụng cho phép tính của mình.
Tổng cộng có tới 50 thông số khác nhau được GFP tính đến, sau đó qua một thuật toán phức tạp để cho ra điểm số GFP Index của 126 quốc gia khác nhau trên Thế giới và đưa ra BXH dựa trên chỉ số đó.
Dưới đây là một số thống kê đáng chú ý nhất về Quân đội Nhân dân Việt Nam, theo GFP.
(Mọi con số trong bài đều do GFP tổng hợp từ nguồn riêng, có thể không phản ánh tình hình thực tế. Vì vậy tất cả chỉ mang tính tham khảo).
Nhân lực
Bên cạnh vũ khí, khí tài và trang thiết bị hiện tại, thứ thực sự là nòng cốt của mọi đạo quân chính là con người. Lợi thế về mặt quân số bao giờ cùng được tính đến trong mọi cuộc chiến.
Về yếu tố này, nước ta hiện có dân số khoảng 94.348.835 người, trong đó tổng dân số đủ khả năng phục vụ quân sự là 41.505.000 (hạng 12 Thế giới). Mỗi năm nước ta lại có thêm 1.640.000 người đủ tuổi nhập ngũ phục vụ quân sự.
Quân số chính quy của nước ta hiện nay vào khoảng 415.000 quân (hạng 13). Tuy nhiên đáng kể là thêm khoảng 5.040.000 quân số dự bị, sẵn sàng được huy động bất cứ lúc nào. Đây là lực lượng quân dự bị xếp số 1 Thế giới, nhiều hơn bất cứ quốc gia nào khác.
Trang bị lục quân
Gồm các thống kê về số lượng xe tăng chủ lực, xe tăng hạng nhẹ, các loại xe bọc thép, hỗ trợ hỏa lực, chở quân, các loại pháo,v.v.
Quân đội Nhân dân Việt Nam hiện có trong trang bị tổng cộng 1.470 xe tăng (hạng 18), 3.150 xe bọc thép các loại (hạng 21), 1.100 hệ thống pháo phản lực, 2.200 khẩu pháo thông thường , 524 pháo tự hành.
Trong thời gian qua, xuất hiện thông tin từ phía Nga về việc Việt Nam đang trong quá trình kết thúc đàm phán hợp đồng mua xe tăng chiến đấu chủ lực T-90 hiện đại, với số lượng ít nhất 100 chiếc.
Hiện phía Việt Nam chưa lên tiếng gì về nguồn tin trên. Nếu chính xác, đây sẽ là bước hiện đại hóa đáng kể nhất của lực lượng lục quân sau nhiều thập kỷ qua.
Xe tăng chiến đấu chủ lực T-90MS nhiều khả năng sẽ có trong trang bị của quân đội nước ta
Bên cạnh tăng chiến đấu chủ lực, các loại xe chiến đấu và thiết giáp hạng nhẹ của Việt Nam cũng có nhiều nâng cấp nhỏ trong 10 năm trở lại đây, các khí tài mới được đến từ nhiều nguồn khác nhau.
Đa dạng hóa nguồn cung vũ khí cũng là xu thế chung của toàn quân đội ta, giúp quân đội chủ động hơn trong việc tiếp cận công nghệ mới, đón đầu những cơ hội đến từ sự hợp tác quân sự sâu rộng với mọi quốc gia, sau khi Hoa Kỳ dỡ bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí với Việt Nam.
Các hệ thống pháo phản lực EXTRA và ACCULAR (Ảnh trên) và súng Galil ACE (Ảnh dưới, hàng dưới cùng) đều từ Israel là ví dụ sinh động cho đường lối đa dạng hóa nguồn cung vũ khí của Việt Nam
Trang bị Không Quân
Bao gồm cả máy bay cánh bằng và trực thăng, từ mọi quân binh chủng.
Tổng số máy bay có trong trang bị của Không quân Nhân dân Việt Nam là 289 chiếc (hạng 32), trong đó có 146 tiêm kích và máy bay chiến đấu các loại, 161 máy bay vận tải, 26 máy bay huấn luyện.
Tổng số trực thăng là 150 chiếc (hạng 31), trong đó có 25 trực thăng tấn công.
Một chiếc C-295, máy bay vận tải hiện đại nhất của Quân đội Việt Nam
Việt Nam hiện sở hữu đội máy bay chiến đấu thế hệ thứ 4 mạnh hàng đầu khu vực Đông Nam Á, với chủ lực là các máy bay chiến đấu Su-30 MK2 của Nga sản xuất.
Đã có nhiều tin đồn về việc Việt Nam sẽ mua thêm máy bay từ các nước khác, bên cạnh đối tác truyền thống là Nga, tuy nhiên hiện vẫn chưa có kế hoạch cụ thể nào được đưa ra.
Máy bay chiến đấu Su-22 sau khi nâng cấp lên chuẩn "M3 sẽ tiếp tục được Việt Nam sử dụng cho tới khi có các loại máy bay hiện đại hơn được đưa về trực tiếp thay thế nhiệm vụ
Trong khi đó phía Nga vẫn luôn giữ thái độ cởi mở, ưu tiên bán cho Việt Nam cả những loại máy bay hiện đại nhất của nước này. Chính vì vậy giới quan sát tin rằng các máy bay hiện đại hơn, thế hệ 4 và 5 của Nga sẽ sớm có mặt trong Không quân Việt Nam.
Su-30 MK2 hiện nay là xương sống của lực lượng máy bay chiến đấu Việt Nam
Trang bị Hải quân
Hiện Việt Nam có tổng số tàu hải quân là 65 chiếc (hạng 37), trong đó có 7 khinh hạm, 11 tàu tên lửa, tàu pháo nhỏ, 5 tàu ngầm, 23 tàu tuần tra gần bờ, 8 tàu quét lôi/rải mìn.
Sự xuất hiện của các khinh hạm Gepard, rồi tàu ngầm Kilo, đã làm thay đổi bộ mặt của Hải quân Việt Nam
Trước những diễn biến phức tạp trên biển Đông, Hải quân là lực lượng được tập trung hiện đại hóa trong thời gian qua. Chỉ trong một thời gian ngắn, từ chỗ chỉ có những đội tàu cũ kỹ, lạc hậu, Hải quân Việt Nam đã được trang bị số lượng tàu chiến mặt nước và tàu ngầm hiện đại đủ sức để phòng thủ bờ biển dài của nước ta.
Dự trữ tài nguyên (dầu mỏ)
Bất kể lợi thế về công nghệ chiến tranh đến đâu, dầu mỏ vẫn luôn đóng vai trò là nguồn "máu" nuôi sống mọi lực lượng chiến đấu.
Sản lượng dầu mỏ của nước ta hiện ở mức 298.400 thùng dầu thô/ngày. Trong khi đó lượng tiêu thụ dầu mỏ trong nước là 415.000 thùng dầu thô/ngày, dự trữ dầu thô là 4.4 tỷ thùng.
Với sự phát triển nhanh của nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện sản lượng khai thác dầu thô của nước ta đang thấp hơn lượng tiêu thụ nội địa, buộc ngành dầu khí phải tham gia hợp tác khoan thăm dò và khai thác tại khắp nơi trên Thế giới.
Hậu cần
Chiến tranh ngoài những trận giao đấu trên chiến trường, còn là cuộc chiến không khoan nhượng ở khâu hậu cần. Phe nào có hệ thống luân chuyển người, hàng hóa, lương thực, khí giới từ hậu phương ra tiền tuyến tốt hơn sẽ nắm lợi thế rất lớn. Điều này đã được thể hiện rõ qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của Việt Nam.
Hiện Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào lên tới 54.170.000 người (hạng 11), số lượng tàu buôn tư nhân là 579 chiếc, số cảng biển lớn là 6.
Tổng chiều dài đường bộ của Việt Nam là 180.549km (hạng 26), đường sắt là 2.632km (hạng 62). Số sân bay có thể khai thác được là 45.
Trên đây là một số những con số thống kê đáng chú ý nhất, cộng với nhiều thống kê khác, GFP đánh giá chỉ số sức mạnh quân sự của Việt Nam ở mức 0.3684 (0.0000 là cao nhất), xếp hạng 17 Thế giới, thứ 6 ở châu Á. Tại Đông Nam Á, Việt Nam chỉ xếp sau Indonesia (hạng 14), quốc gia có dân số đông vượt trội
(Theo Báo Tin Nhanh)
Tư lệnh Thái Bình Dương Mỹ Harry Harris thăm Việt Nam Trong chuyến thăm Việt Nam, Đô đốc Harry B. Harris, Jr., Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ, tái khẳng định cam kết tăng cường quan hệ song phương và nâng cao năng lực của Việt Nam, đặc biệt về an ninh hàng hải và thực thi pháp luật. Trung tướng Phan Văn Giang (trái) và Đô đốc Harry B....