Những chuyện ly kỳ ở “nóc nhà thứ 3″ của Việt Nam
Đỉnh Chiêu Lầu Thi được ví như “nóc nhà thứ 3″ của Việt Nam ẩn chứa những câu chuyện ly kỳ và thú vị khiến nhiều người phải ngỡ ngàng.
Nghề chạm bạc đã mang vinh hoa phú quý đến gia tộc họ Lù ở thôn Đông Chứ 1, xã Ngán Chiên, huyện Xín Mần. Và đến lượt mình, lớp lớp các thế hệ con cháu nguyện “sinh nghề tử nghiệp” để trả ơn tiên tổ.
Cả gia tộc cùng làm một nghề
Đứng ở trung tâm xã Ngán Chiên nhìn xuống, có thể thấy hàng chục đỉnh đồi, núi lớn nhỏ lô nhô xếp tầng lên nhau. Ông Xìn Đức Việt, Phó Chủ tịch UBND xã Ngán Chiên, khoe rằng, địa phương có hẳn một thôn toàn người giàu. Ông Việt đích thân dẫn phóng viên đến thôn Đông Chứ 1, nơi có gia tộc họ Lù sinh sống từ nhiều đời.
Giao thông ở Ngán Chiên rất tệ, chủ yếu vẫn là đường đất, nhiều đoạn bị nước suối cắt ngang chưa có cầu, xe máy lao xuống là chết máy, phải nhờ (thuê) dân bản địa khênh qua. Thế mà họ Lù ở thôn Đông Chứ 1 đã tự bỏ tiền làm một tuyến đường bê tông ra đến tận UBND xã.
Các thành viên trong gia tộc họ Lù tự hào vì nghề truyền thống của gia đình.
Tôi ghé vào ngôi nhà sàn khang trang đầu tiên được dựng bằng gỗ nghiến bào bóng nhoáng. Ông Lù Sào Tin (63 tuổi) dáng người thanh mảnh đang ngồi bên lò than hồng rực lửa, tay phải nắm một thanh sắt nhỏ gắn với khúc gỗ rỗng bịt kín hai đầu, hết kéo ra lại đẩy vào như người cầm cưa để tạo gió thổi than cháy nỏ; tay trái cầm chiếc kìm sắt kẹp một chén đất nung chứa những mảnh bạc vụn màu xám đục hơ trên lửa. Sau khi những mảnh bạc bị nung chảy, ông nâng chén lên trước ngực, phùng miệng lấy hơi rồi thổi bay lớp màng tro nổi lềnh phềnh trên bề mặt tạo ra những tia sáng như pháo bông đang cháy.
Người thợ chạm bạc lật một viên gạch đất đã khoét rãnh ở giữa, từ từ nghiêng chén rót bạc vào đó, trong nháy mắt, chất lỏng màu đỏ chuyển thành một thanh bạc thon như cây bút chì trắng muốt. Dội gáo nước cho hạ nhiệt, ông Tin cầm thanh bạc đặt lên một tảng sắt, cứ thế dùng búa nện thành một dây bạc dài thuồn thuột. “Từ dây bạc này, tôi có thể kéo thành sợi chỉ, sợi tóc nhờ tấm kẽm đục nhiều lỗ có kích cỡ khác nhau. Nhiều người học cả đời cũng không làm được kỹ thuật này đâu”, ông Tin khoe.
Ông Lù Sào Tin ghép các chi tiết bạc lại với nhau.
Không để lỗi
Ông Tin bảo: “Thôn Đông Chứ 1 có 14 hộ thì tất thảy đều là con cháu gia tộc họ Lù. Nghề chạm bạc đã có từ đời cụ nội tôi, đến lớp lớp các thế hệ con cháu tiếp nối, ai cũng giữ nghiệp tiên tổ truyền lại”.
Những thành viên của gia tộc họ Lù ở Đông Chứ 1 vẫn tự hào rằng, ở đâu có người Nùng thì ở đó có sản phẩm trang sức của gia đình mình chế tác. Không chỉ dân buôn vàng bạc ở Hà Giang, mà các tỉnh lân cận như Tuyên Quang, Yên Bái, Cao Bằng, Lào Cai… cũng tìm đến đặt hàng.
Người Nùng quan niệm, bạc là hiện thân của tình yêu vĩnh cửu, vì thế, trong những đám cưới hỏi, trên người cô dâu có nhiều trang sức bằng bạc, từ chiếc khuy, đồng xu đính trên áo, đến bộ xà tích lúc lắc cạp quần, đôi lắc tay to như quai đồng hồ trên tay và 4 – 5 chiếc dây chuyền to nhỏ với những hình thù khác nhau lủng lẳng trước ngực
Video đang HOT
Họ Lù ở thôn Đông Chứ được thừa hưởng bộ khuôn đúc bạc quý giá tổ tiên để lại.
Mỗi hoa tiết đều mang một ý nghĩa riêng, thể hiện văn hoa của người Nùng từ nếp nghĩ đến sinh hoạt đời thường. Ví dụ, chim bồ câu tượng trưng cho khát vọng hoà bình; rồng – phượng tượng trưng cho cuộc sống vợ chồng hạnh phúc; đồng bạc thể hiện ước vọng đổi đời và những dây chuyền ghép từ những mắt xích là hiện thân của tinh thần gắn kết cộng đồng… Ông Tin cho biết, một bộ trang sức của cô dâu phải mất từ 1 – 1,5 kg bạc trắng, tuy vào điều kiện của mỗi gia đình. Và đó cũng là số tiền mà nhà gái thách cưới nhà trai.
“Đồ trang sức của gia tộc tôi là thứ hàng độc nhất vô nhị, chẳng ai có thể nhái được. Bởi chúng tôi được tổ tiên truyền lại hàng trăm khuôn đúc mang hình thù khác nhau, tinh xảo đến mức nhiều chi tiết phải soi kính lúp mới nhìn thấy. Và khoảng 90% họa tiết được đục, uấn, giũa, cắt và hàn… bằng tay. Có những đồ trang sức, chỉ cần lỗi một họa tiết, chúng tôi sẵn sàng đập bỏ và nung lại, tuyệt đối không bán hàng lỗi. Trong quy tắc nghề nghiệp của dòng họ quy định không ai được uống rượu trước và trong giờ làm việc”, ông Tin tiết lộ.
Có lẽ, vì cảm mến tính tỉ mẩn và cầu toàn đầy trách nhiệm đối với từng sản phẩm của thợ kim hoàn họ Lù mà người ta chấp nhận vượt bao ngọn đồi, quả núi tìm đến vùng đất giữa mây mù đặt hàng. Tiền bạc, giàu sang được sinh ra từ đó. Vào ngày mồng 1 hang tháng, gia tộc họ Lù lại giết lợn béo, dê đực, gà, ngan, ngỗng… bày mâm cao cỗ đầy họp mặt các thành viên. Nếu nhìn thấy cuộc sống sung túc ấy, có lẽ nhiều gia đình ở phố thị cũng thấy thèm thuồng.
Ước mơ một làng nghề
Nghề chạm bạc đã mang vinh hoa cho những người thợ kim hoàn họ Lù, nhưng để tạo ra những món đồ trang sức tinh xảo đến từng chi tiết nhỏ hơn cả hạt cát, lóng lánh ánh kim, họ đã lao động mệt nhọc đến đổ mồ hôi, sôi nước mắt.
Ông Tin chia sẻ: Muốn nung những mảnh bạc vụn tan chảy và đổ thành một khối để chế tác, người chạm bạc phải có được những hòn than cháy nỏ, lâu tàn và sinh nhiệt cao. Ở dưới xuôi, người ta dễ dàng mua than đá với giá bèo bọt, nhưng Ngán Chiên là xã “cùng trời”, đường đi hiểm trở, vận chuyển than lên để làm thì sạt nghiệp.
Bạc là vật trang trí bắt mắt nhất trong trang phục của cô gái người Nùng.
Sống trên núi, đương nhiên phải lấy củi đốt than, nhưng chỉ những cây gỗ cứng mọc tít trên đỉnh Chiêu Lầu Thi cao hơn 2.000 m mới tạo ra chất than thượng hạng để nung bạc. Vào mùa hạ, trang sức bán chậm, khi mặt trời còn trốn sau đỉnh núi, ông Tin và người con trai Lù Văn Chưởng lại lục tục dậy, đeo trên người lủng lẳng cơm nắm, dao dựa, bạt ni lông… leo qua những con dốc dựng ngược lên đỉnh núi tìm cây chết khô xếp lại thành đống, sau đó đốt cháy thành than. Vì đường sá xa xôi, hai bố con phải lợp lều ngủ lại giữa rừng chờ sáng hôm sau đúc than vào bao tải vác xuống núi. Chuyện trượt chân ngã toé máu là chuyện thường.
Với những người thợ chạm bạc ở thôn Đông Chứ 1, 24 giờ một ngày là quá ít. Bởi “làm bừa, làm ẩu để kiếm tiền là bất nhân, bất hiếu với tổ tiên bao đời gìn giữ, phát triển nghề; giao hàng chậm là bất tín với khách hàng”. Vì thế, họ bắt đầu công việc trước bình minh và chỉ ngừng tay khi ánh trăng đã vượt lên đỉnh núi cao nhất.
Ông Tin và tất cả thành viên trong gia tộc họ Lù vẫn ngày ngày chờ đợi giây phút được treo tấm bảng ghi dòng chữ “Làng nghề chạm bạc Đông Chứ 1″ trước cổng thôn. Và, mong mỏi ấy sắp trở thành hiện thực khi chính quyền xã Ngán Chiên đang dốc sức hoàn thiện những thủ tục cuối cùng để công nhận làng nghề chạm bạc tại địa phương.
Theo NNVN
Những "người rừng" ở Việt Nam khiến dư luận xôn xao
Hai cha con người rừng 40 năm sống giữa rừng sâu; mẹ con "người rừng" hoa khôi ôm nhau sống lay lắt giữa đại ngàn; "người rừng" từng là "đại gia" giữa thủ đô Hà Nội... là những câu chuyện ly kỳ có thật ở Việt Nam.
Hai cha con người rừng 40 năm sống giữa rừng sâu
Ngày 7/8, cơ quan chức năng của huyện Tây Trà (tỉnh Quảng Ngãi) đã giải cứu thành công hai cha con "người rừng" Hồ Văn Thanh (SN 1931) và Hồ Văn Lang (41 tuổi, dân tộc Cor, ngụ xã Trà Xinh, huyện Tây Trà) ra khỏi vùng rừng núi nằm ở thôn Trà Kem (xã Trà Xinh) sau 40 năm sống biệt lập hoàn toàn với thế giới con người.
Những hình ảnh về cha con "người rừng" xuất hiện trên báo nước ngoài.
Rất nhanh sau đó câu chuyện về hai cha con ông xuất hiện trên nhiều tờ báo trong và ngoài nước với sự ngạc nhiên và cảm động. Mọi người đã coi Tarzan là có thật
Tờ báo International Business Times nổi tiếng thế giới viết: "Họ sống ở một căn chòi trên cây, cách mặt đất 6 mét, gần một con suối. Hai người dùng vỏ cây làm khố và tự chế dao, rìu, mũi tên làm công cụ đi săn. Họ ăn ngô, lá cây rừng và còn có một mảnh đất rộng một hecta để trồng mía".
Có thể nói với người rừng Hồ Văn Thanh (82 tuổi) thì bây giờ việc rời bỏ rừng hoang, về làng cũ là một sự trở lại. Còn Hồ Văn Lang thì ngược lại, 41 tuổi thì đã hơn 40 năm sống biệt lập với cộng đồng, nên về bản làng với anh là sự khởi đầu, sự ra đi, đến một thế giới văn minh, lạ lẫm của loài người.
Cho đến hiện tại Hồ Văn Lang vẫn đang khám phá thế giới mới xung quanh mình và từng bước hòa nhập với cuộc sống bình thường.
Mẹ con "người rừng" hoa khôi ôm nhau sống lay lắt giữa đại ngàn
Chị Nguyễn Thị Sinh vốn là hoa khôi nổi tiếng khắp vùng đất Tam Nông (Phú Thọ), thế nhưng cuộc sống đẩy đưa khiến chị trở nên "thân tàn ma dại", phải đi hết cánh rừng này đến cánh rừng khác sống lay lắt qua ngày.
Người dân xã Phương Thịnh thuộc huyện Tam Nông, Phú Thọ vẫn coi mẹ con chị Sinh là "người rừng" bởi hơn chục năm nay, hai mẹ con cứ ôm nhau đi hết cánh rừng này đến cánh rừng khác để sinh sống.
Hình ảnh cảm động của mẹ con "người rừng".
Từ một cán bộ tham gia công tác phụ nữ năng nổ, xinh đẹp tại xã, do ám ảnh bởi chuyện tình yêu chung thủy với người chồng vô sinh đã biến cô thành người vô ý thức và trở thành nỗi khiếp sợ hàng đêm của thôn xóm. Và trong thời gian bị chồng ruồng bỏ đó, bỗng nhiên cô có bầu, và con trai của cô được sinh ra trong sự cảm thông của dân làng.
Anh trai Sinh đã xin đổi với hàng xóm một mảnh đất để đưa cô vào ở khuất hẳn sâu bên trong làng. Nhờ sự giúp đỡ của chính quyền và công sức của một số đoàn thể, anh đã cất cho em gái một căn nhà cấp 4, làm nơi che nắng che mưa cho cả hai mẹ con.
Hai mẹ con "người rừng" vẫn dìu nhau sống qua ngày, bé trai cho biết "Hàng ngày đi học, mẹ thường dắt cháu tới trường, ngồi chờ cháu học xong lại dắt cháu về. Đường xa lắm, ngày nào cũng đi bộ từ sáng sớm và về thì đã quá trưa. Mẹ lại bế cháu đi xin gạo, xin rau ở nhà các bác về để nấu cơm. Nhiều hôm không có gạo, mẹ nấu rau sắn, rau muống hay măng tre ăn. Cháu muốn được đi học để sau này làm bác sĩ chữa bệnh cho mẹ".
Tuy ai cũng gọi cô là "bà điên" nhưng hình ảnh người phụ nữ quấn quýt với cậu con trai, lo toan chuyện sách vở, ăn uống và đưa con đi học như những bà mẹ bình thường khiến không ít bạn đọc xúc động.
Gia đình "người rừng" giữa đồng bằng
Gia đình ông Trần Văn Nhịn (54 tuổi) sống trong khoảnh vườn, cây dại mọc um tùm, tách biệt với chòm xóm ở ấp Nhất A, xã Chánh Hội (Huyện Mang Thít, Vĩnh Long).
"Người rừng" Trần Văn Nhịn và con gái.
Ông Nhịn và vợ tên Võ Thị Sáu có với nhau 10 mặt con, gồm 4 trai 6 gái nhưng ông không nhớ rõ tên tuổi của các con mình, mà thường gọi con theo tên các nghệ sĩ mà ông yêu thích như: Thanh Nga, Thanh Kim Huệ, Vũ Linh, Quế Trân... Hỏi ông Nhịn vì sao không giao tiếp hàng xóm, cho con đi học..., ông chỉ cười mà không trả lời.
Mặc dù ông Nhịn đã có thời gian làm ở Đội Cảnh sát bảo vệ Huyện ủy Long Hồ, nhưng không hiểu sao tính tình ông Nhịn khá... kỳ quặc, thích sống biệt lập, xa cách mọi người.
Ông Huỳnh Văn Thắng, nhà giáp ranh đất ông Nhịn, cho biết: "Gần 30 năm sinh sống tại đây, tôi chưa bao giờ thấy ông Nhịn đi đám tiệc với bà con chòm xóm. Khu vực nhà ông Nhịn ở như cái ốc đảo, ít người lui tới, tối đến không điện, gặp người lạ đến thì chủ nhà... trốn mất".
Hàng xóm ông Nhịn cho biết, ngày vợ ông Nhịn bị tai nạn qua đời, ông trốn biệt không ai thấy. Ông chỉ ló mặt sau đó 3 ngày, khi bà con lo chôn cất vợ ông xong, mỗi khi đi ra đường, ông ấy 2 cái nắp vung đeo trước một cái, sau một cái và cầm theo một cây gậy để phòng thủ sợ người khác đánh mình, nhìn giống như người rừng xuống phố.
"Người rừng" từng là "đại gia" giữa thủ đô Hà Nội
Thời gian gần đây dư luận đặc biệt quan tâm đến những "người rừng" sống như "thời nguyên thủy" trong những ngôi nhà trên cây giữa lòng thủ đô Hà Nội.
3 túp lều lụp xụp từ bạt rách, chiếu rách, những tấm gỗ bỏ đi hoặc bất cứ thứ gì có thể che chắn, nằm cheo leo trên vách đê Bưởi hướng đi từ Lạc Long Quân - Cầu Giấy, ít người để ý đến và biết có người sống ở đây.
"Người rừng" giữa thủ đô.
Những người sống tại đây thường lang thang đi nhặt phế liệu sống qua ngày. Sau khi báo chí đăng tải thông tin, họ cũng tỏ ra e ngại và tránh mặt, không trở về nhà, phải khó khăn lắm phóng viên báo Đời sống và pháp luật mới tiếp xúc được với một người ông Trương Ngọc Tuất (67 tuổi). Theo những người dân sống tại khu vực này, ông Tuấn hiện nay cũng không được minh mẫn lắm, lúc nhớ lúc quên, nhưng lúc nào nhớ thì ông kể chuyện rất rành mạch và rất hay.
Ông Tuất cho biết ngày xưa ông cũng thuộc hàng khá giả, cũng có cỡ tiền tỷ tài sản khoảng 3 tỷ. Sau đó ông bán hết nhà, hết đất rồi chia cho hai con, hai con ông cũng bảo đón ông về ở cùng nhưng ông không thích nên ra đây sống được mấy năm rồi. Dù cuộc sống của ông còn khó khăn nhưng "người rừng" vẫn vui bởi có bạn bè, đồng đội.
Theo Báo ĐSPL
Khai trương Trung tâm xạ trị ung thư phổi công nghệ cao Ngày 18/11, Bệnh viện Phổi trung ương chính thức tổ chức khai trương và đưa vào hoạt động Trung tâm Xạ trị Ung thư Phổi bằng công nghệ xạ trị gia tốc tuyến tính. BSCK II Tạ Chi Phương, Trưởng khoa Ung Bướu kiêm Phó Giám đốc Trung tâm Xạ trị Ung thư Phổi cho biết, ung thư phổi là một trong những...