Những câu chuyện cổ tích trên vùng biển Hà Tĩnh
Ít nơi nào như ở Hà Tĩnh, trên vùng biển chỉ 137 km lại chứa đựng nhiều truyền thuyết vừa hư vừa thực gắn với những di tích, danh thắng hùng vỹ, thơ mộng.
Một ngày chớm hè, chúng tôi về thăm đền Chiêu Trưng Đại Vương tọa lạc trên đỉnh Long Ngâm thuộc dãy Nam Giới (còn gọi là Quỳnh Viên). Cả một vùng non nước Nam Giới – Long Ngâm – Cửa Sót tĩnh lặng, tiếng gió, tiếng sóng hòa âm trong câu chuyện kể về người dũng tướng ở thế kỷ XV.
Sử sách ghi lại, Lê Khôi (chưa rõ năm sinh) người làng Lam Sơn, Thụy Nguyên (nay là Thọ Xuân), Thanh Hóa. Ông là cháu ruột của Vua Lê Thái Tổ, là 1 trong 35 vị công thần, lập được nhiều chiến công hiển hách trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ông làm quan trải qua 3 đời Vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, được phong đến Nhập nội tư mã, Tham tri chính sự… Ông từng làm Nhập nội thiếu úy, đốc trấn Nghệ An, có nhiều công lao với vùng đất này, được Nhân dân cảm phục, ghi công.
Năm 1446, ông cùng Đô đốc Lê Khả đem binh đ.ánh phương Nam, đi đến đâu giặc tan đến đó. Trên đường trở về, ông lâm bệnh nặng và mất vào ngày 3/5 năm Bính Dần (1446) tại vùng biển xã Thạch Hải ngày nay. Quân sỹ chọn vùng đất đẹp mai táng ông tại ngọn Long Ngâm, núi Nam Giới, làng Dương Luật (nay là xã Đỉnh Bàn, Thạch Hà). Nhà vua vô cùng thương xót cho bãi triều 3 ngày và sắc phong cho ông là Nhập nội Đô đốc, tên thụy là Trung Hiển, sau tặng Nhập nội kiểm hiệu tư không, Bình chương sự, đổi tên thụy là Võ Mục Công. Nhân dân Châu Hoan đã dựng đền thờ để ghi nhớ ơn đức của ông. Đền được dựng năm Đinh Mão (1447) đời vua Lê Nhân Tông. Đời vua Lê Thánh Tông, danh tướng Lê Khôi được truy phong là Chiêu Trưng Vương.
Trải qua bao biến thiên của thời gian, bao lớp sóng lở bồi, ngôi đền thiêng đầu gối sơn, chân đạp thủy vẫn vững vàng nơi cửa biển, che chở cho một vùng non nước 2 huyện Thạch Hà, Lộc Hà. Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ VH-TT&DL) đã công nhận Đền thờ và Lăng mộ Lê Khôi là Di tích Lịch sử văn hóa quốc gia (năm 1990), Di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật quốc gia (năm 1993). Năm 2017, Lễ hội đền Chiêu Trưng được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Ông Nguyễn Văn Lượng – Trưởng ban Quản lý đền Lê Khôi, một trong những vị cao niên ở đây kể cho chúng tôi nghe nhiều câu chuyện dân gian lưu truyền về sự linh thiêng của ngôi đền. Đó là chuyện về sự hiển linh của Chiêu Trưng Đại Vương trong lễ giỗ, về những trận bão lớn đổ vào bờ biển, như thấu hiểu được lời nguyện cầu của Nhân dân, ngài đã che chở cho Hà Tĩnh được bình yên, về những chuyến ra khơi an toàn của ngư dân, về chuyện tìm kiếm người mất tích trên biển… Như một cơ duyên, có vị Đại đức của một ngôi chùa ở Nghệ An giỏi chữ Hán đã đọc cho tôi nghe 2 câu đối trước cửa đền:
Dư linh trường tại Quỳnh Sơn trì duật Hải Đông
Đạo ái truy tư ban an Long Ngâm xứ
(Nghĩa là: Sự linh thiêng còn mãi nơi núi Quỳnh trước Biển Đông/ Nhà vua thương nhớ ban cho an nghỉ tại Long Ngâm xứ).
Dưới chân dãy Nam Giới giờ đây, ngôi chùa cổ Quỳnh Viên vừa được phục dựng nằm cạnh khu resort Quỳnh Viên nên thơ, sơn thủy hữu tình. Cùng với lễ hội đền Chiêu Trưng, các di tích, danh thắng ở đây đã mời gọi bước chân của du khách. Lễ hội đền Chiêu Trưng vào dịp tháng 5 (âm lịch) thu hút hàng nghìn lượt người về dự và thưởng ngoạn cảnh núi non.
Theo con đường ven biển đẹp như dải lụa, chúng tôi về với Thiên Cầm. Không chỉ có bãi biển đẹp và nước trong, có núi và chùa Cầm Sơn, đảo hòn Én, hòn Bớc, địa danh này còn thấm đẫm huyền thoại và truyền thuyết bởi nguồn gốc 2 từ “Thiên Cầm”. Người xưa kể lại rằng, Vua Hùng thứ XIII đi qua đây, một đêm ngủ lại, nghe tiếng gió vi vu như tiếng đàn trời nên đã đặt tên cho vùng biển này là Thiên Cầm, nghĩa là đàn trời.
Thế nhưng, câu chuyện truyền thuyết được lưu truyền nhiều nhất liên quan đến nhân vật lịch sử Hồ Quý Ly. Hồ Quý Ly (1336-1407) là một nhân vật lịch sử đặc biệt, sống ở giai đoạn cuối đời Trần chuyển sang đời Hồ. Ông quê ở Vĩnh Lộc, Thanh Hóa, là võ tướng giỏi, có công lao đ.ánh giặc Chiêm Thành, được các vua nhà Trần tin dùng. Sau khi cướp ngôi nhà Trần, xây Thành nhà Hồ ở Vĩnh Lộc, Thanh Hóa, ông tự lên ngôi vua, xưng là Quốc Tổ Chương Hoàng, đặt tên nước là Đại Ngu.
Video đang HOT
Ông thực hiện nhiều chính sách cải cách đất nước nhưng do chưa phù hợp với đương thời, triều chính lại hỗn loạn, lòng dân không thuận. Thế nên chỉ làm vua chưa được một năm, ông đã phải nhường ngôi cho con trai Hồ Hán Thương. Lợi dụng tình hình lúc đó, giặc Minh đã tấn công vào Thăng Long. Cha con Hồ Quý Ly chống cự không nổi phải chạy về Thanh Hóa, Nghệ An, cuối cùng đến cửa biển Kỳ La (tên gọi huyện Cẩm Xuyên lúc bấy giờ), bị giặc truy đuổi, 2 cha con trốn trên núi và đã bị bắt đưa về Trung Quốc.
Từ đó, Nhân dân gọi hang Dang Hùng là hang Hồ Quý Ly, dưới chân núi còn có “Giếng tàu”, có “Đường bắt” liên quan đến cuộc truy bắt của giặc Minh. Chữ “Thiên Cầm” ở đây có nghĩa là bị “trời giữ”. Ý nói cha con Hồ Quý Ly làm nhiều việc không thuận với mệnh trời nên đã bị bắt giữ, là bài học cho các bậc đế vương phải luôn thuận ý trời, được lòng dân. Câu chuyện này tôi đã nghe một cụ già ở đây kể ngay ở bên hang Dang Hùng cho đoàn thiếu nhi đi tham quan hàng chục năm trước, khắc sâu vào tâm khảm. Rú Cùm (tiếng địa phương nghĩa là núi Cầm). Trên núi giờ đây có ngôi chùa Cầm Sơn, tiếng chuông ngân nga hòa cùng giai điệu của sóng và gió như ngợi ca khung cảnh thái bình của đất nước.
Lịch sử địa phương cũng ghi lại: Vào năm 1953, rạng ngày 4/9, giặc Pháp với 2 tiểu đoàn Âu Phi, 4 tàu thủy, 2 phi cơ, 12 ca-nô chia làm 4 cánh đổ bộ lên Nhượng Bạn, Cẩm Long, Cẩm Phúc g.iết c.hết nhiều dân lành, đốt nhiều nhà cửa, thuyền lưới và lấy đi nhiều của cải của dân làng, nhưng chúng đã bị cùm chân lại và bị tổn thất không nhỏ. Dân quân các xã Nhượng Bạn, Cẩm Phúc đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, diệt 42 lính Âu Phi, bắt sống nhiều tên địch. Trong trận quyết chiến đó, 30 người đã hy sinh.
Ở vùng biển phía Nam Hà Tĩnh còn có câu chuyện dân gian được ghi lại và lưu truyền qua nhiều thế kỷ gắn với một nữ trung hào kiệt: Chế Thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu, ái phi của Vua Trần Duệ Tông. Nàng là “viên ngọc sáng” của một vị quan trong triều thông minh, tài giỏi. Nàng đã có 10 lời khuyên vua trị nước “Kê minh thập sách” nổi tiếng. Năm 1377, Vua Trần Duệ Tông cất quân đi đ.ánh Chăm Pa, can ngăn vua không được, nàng xin đi theo chồng. Dân gian kể về sự hy sinh của nàng theo 2 câu chuyện: Đội chiến thuyền đến Hải Khẩu thì gặp sóng to gió lớn không đi được nên dừng lại, đêm nằm ngủ, nhà vua mộng có vị thủy thần đòi phải tế một người con gái đẹp thì mới sóng yên biển lặng. Bích Châu tự nguyện làm vật tế thần.
Ngay sau đó thì sóng yên biển lặng. Một câu chuyện khác: Đoàn chiến thuyền của nhà vua phải giao tranh với giặc giữ. Giữa lúc nguy nan, nàng Bích Châu cũng xông ra đ.ánh giặc và hy sinh. T.hi h.ài bà được an táng tạm thời tại cửa biển Ô Tôn (nay là đền Eo Bạch ở Vũng Áng). Sau khi nhà vua tử trận, t.hi h.ài vua được đưa về cung, quan quân trở về mới làm lễ, rước t.hi h.ài bà và lập mộ tại địa điểm đền Bà Hải hiện nay. Vua Lê Thánh Tông sau khi đ.ánh thắng quân giặc trở về qua đây nghe chuyện đã sai lập đền thờ và phong cho bà tước vị Chế Thắng phu nhân. Hằng năm, đến mùa xuân, Nhân dân khắp nơi đều về đây để bái vọng, cầu phúc, cầu tài, cầu lộc…
PGS-TS Trần Thị An, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội trong một bài nghiên cứu của mình đã đưa ra nhận xét: “Bà Hải, từ một vị thần nổi tiếng linh ứng ở chốn biển khơi đã trở thành một vị phúc thần cầu phúc, chữa bệnh, che chở cho con người khỏi mọi tai ương. 7 loại lá sớ ở đền hiện nay đã minh chứng cho sự mở rộng biên độ về sự phù trợ của bà: cầu phúc thọ, cầu tài; giải hạn, trừ tai; mãi thổ yên cư; ứng sinh (cầu tự); gửi bào thai (đang mang thai đến cầu để an thai, sau khi sinh chuộc sớ gửi bào thai, làm sớ gửi con); cầu công danh sự nghiệp; giải phong long (giải những vận đen cho phụ nữ mới sinh con)”.
Đi dọc bờ biển Hà Tĩnh từ Bắc vào Nam còn có biết bao chuyện cổ tích, huyền thoại, truyền thuyết gắn với các di tích danh thắng như: Song Ngư hý thủy (đôi cá giỡn nước) ở Cửa Hội (Nghi Xuân), chuyện thờ thần Tam lang ở Miếu Ao (Thạch Trị, Thạch Hà), bãi biển Nguyễn Huệ (Kỳ Xuân, huyện Kỳ Anh) liên quan đến chuyện Vua Quang Trung, Mũi Đao – Đèo Ngang và bài thơ của Bà huyện Thanh Quan… Gắn với đó là những lễ hội lớn nhỏ như: lễ hội Cầu ngư Nhượng Bạn, lễ giỗ Chế Thắng phu nhân…
Một kho tàng di sản lớn chưa được đưa đến với du khách đúng nghĩa do việc nghiên cứu, quảng bá chưa được chú trọng. Khai thác các câu chuyện dân gian trong phát triển du lịch vừa thể hiện lòng tri ân với các danh nhân, nhân thần, nhiên thần, vừa thỏa mãn nhu cầu gửi gắm ước nguyện được độ trì che chở của người dân. Đó cũng là phương thức thu hút du khách mà những người làm du lịch cần quan tâm, nghiên cứu.
Cesky Krumlov - địa danh 'chạm đến trái tim lữ khách'
Cái đẹp không nhất thiết phải đến từ những thứ lộng lẫy, xa hoa mà chỉ cần sự đơn sơ, mộc mạc của Cesky Krumlov cũng đã có thể chạm đến trái tim của những lữ khách mỗi khi dừng chân tại nơi đây.
Tác giả tại Cầu đá bên trong lâu đài Cesky Krumlov.
Tôi đến Cesky Krumlov, một trong những ngôi làng cổ đẹp nhất châu Âu vào một ngày cận Giáng sinh. Chuyến xe bus sớm từ Prague bon bon qua đồi, qua núi, qua làng mạc đưa tôi đến với nơi mà tôi đã bao lần ao ước. Ngày còn là sinh viên, tôi vẫn cứ hay lang thang trên Internet để ngắm nhìn những nơi cổ kính của châu Âu qua màn hình máy tính, mong một ngày mình có thể đặt chân đến những con đường, những tòa lâu đài ấy để cảm nhận hương vị của thời gian.
Ngôi làng cổ tích
Cesky Krumlov là một thị trấn nhỏ thuộc vùng Nam Bohemia, Cộng hòa Czech. Cách Thủ đô Prague chưa đến 200km, việc di chuyển đến Cesky Krumlov có thể thực hiện một cách rất dễ dàng bằng tàu hoặc xe bus.
Những ngày mùa đông, cây cối ven đường đã rụng lá trơ trọi, chỉ còn những rặng cây xơ xác nối đuôi nhau bất tận. Dọc đường, xe còn băng ngang qua những đồng cỏ dài tít tắp. Sáng sớm, cỏ mùa đông không xanh mướt mát như ngày hè mà phả trên đó một màn sương xám nhàn nhạt. Nhưng những dải lụa xanh ấy vẫn rất mát mắt. Làng Cesky Krumlov nằm ở trạm cuối của tuyến xe này, nên tôi không cần để ý các trạm dọc đường mà thoải mái ngắm cảnh đến khi xe dừng hẳn.
Ấn tượng đầu tiên của tôi về ngôi làng cổ kính này chính là sự ấm áp. Trước các cửa nhà đều có một vài chậu hoa bé bé, xinh xinh. Mọi thứ tại nơi này đều mang một gam màu ấm nóng như vàng, cam, đỏ, hồng hay nâu gỗ và be. Từ mái ngói, đến tường nhà và cả hoàng hôn, làm tôi có một cảm giác rất ấm áp và nhẹ nhàng khi đến đây (dù cho vào ngày tôi đến, thời tiết chỉ khoảng 5-6 độ C).
Sự ấm áp còn len lỏi vào nhịp sống của cư dân vùng này. Hoặc có lẽ tôi đến vào một ngày mùa đông, nên mọi thứ đều chậm lại và mọi người trở nên ấm áp hơn với nhau chăng?
Tháp canh đứng sừng sững hàng trăm năm, như một vệ sỹ khổng lồ đứng gác cho dân làng.
Lâu đài gần 800 t.uổi và tháp canh màu hồng
Lâu đài Cesky Krumlov được xây dựng từ năm 1240 với tư cách là lâu đài cá nhân của nhà Witigonen, nhánh chính của dòng họ Rosenberg quyền lực. Trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, đến năm 1950, lâu đài này đã trở thành tài sản quốc gia và được công nhận là di tích quốc gia vào năm 1989. Năm 1992, lâu đài Cesky Krumlov được UNESCO công nhận là di sản thế giới.
Cả ngôi làng nói chung và lâu đài nói riêng đều không quá lớn, sẽ rất thuận tiện cho chuyến tham quan trong ngày.
Trải dài gần 800 năm, kiến trúc nơi đây vẫn được bảo tồn gần như nguyên vẹn. Vì vậy, khi nhìn thấy lâu đài, tôi có cảm giác mình đang bước vào xứ sở của những cô công chúa và chàng hoàng tử mà ngày bé tôi vẫn được nghe.
Bên trong, lâu đài được làm bằng đá, nên khi bước vào sẽ không tránh khỏi cảm giác lạnh lẽo, u tịch. Người dân nơi đây tận dụng những tầng hầm để tổ chức triển lãm tranh hoặc điêu khắc với khá nhiều chủ đề. Xuyên suốt trong lâu đài, có những cây cầu đá bắc qua ngọn tháp. Trên cầu là những bức tượng ôm Thánh giá với vẻ mặt từ bi. Cây cầu đá này cũng là một nơi hóng gió và ngắm cảnh rất tuyệt vời.
Khi đến với lâu đài, tôi muốn tìm thử cảm giác cổ kính, xưa cũ từ khối kiến trúc độc đáo này. Tuy nhiên, nơi đây còn cho tôi nhiều hơn thế. Người xưa đã rất tinh tế khi thiết kế rất nhiều ô cửa và ban công nhỏ từ nhiều hướng của lâu đài, cho phép chúng ta có thể phóng tầm mắt ngắm trọn vẹn vẻ đẹp mộc mạc nhưng không kém phần yêu kiều của cả ngôi làng này.
Cả ngôi làng nhấp nhô mái ngói đỏ cam...
Cả ngôi làng nhấp nhô mái ngói đỏ cam, có cả những ngôi nhà rêu phong phủ bám. Đoạn sông Vltava uốn lượn qua làng. Phía xa xa là những ngọn đồi thoai thoải được cỏ phủ xanh rờn, nối dài tít tắp đến vô tận. Quả là không ngoa khi ngôi làng này được mệnh danh là "một trong những ngôi làng cổ đẹp nhất châu Âu".
Trên những triền dốc của lâu đài, người ta có đặt những băng ghế gỗ mộc để du khách có thể nghỉ chân. Tôi cứ ngồi ngắm những hàng cây trơ trụi lá, những ngôi nhà nhỏ xinh, những đám mây bay lơ lửng phía xa mà chẳng còn cần biết đến thời gian. Trong tôi tràn ngập sự tĩnh lặng và yên bình. Chỉ khi bóng nắng khuất dần sau những đám mây, cơn gió mùa đông trở lại, tôi mới thôi đuổi theo suy nghĩ miên man để trở về với thực tại.
Bên cạnh lâu đài là một ngọn tháp canh màu hồng rất xinh xắn. Người ta nói, ngọn tháp này đã đứng sừng sững hàng trăm năm, như một vệ sỹ khổng lồ đứng gác cho dân làng. Khi leo đủ 162 bậc thang để l.ên đ.ỉnh của ngọn tháp, chúng ta sẽ có thể ngắm được quang cảnh của ngôi làng từ trên cao. Ngay dưới chân tháp có một căn phòng nhỏ. Bên trong rất ấm áp, vô cùng thích hợp để làm chỗ dừng chân cho du khách trong những ngày đông giá rét. Ở đây còn có thể ngắm được mô hình của làng và lâu đài được mô phỏng vô cùng kỳ công.
Bữa trưa truyền thống và chợ Giáng sinh
Ở Czech có một món bánh truyền thống tên là Trdelnik. Đây là một loại bánh có hình dạng khá giống ốc quế, được làm từ bột mì nướng chín giòn trên một thanh trụ, phủ một lớp đường, bột quế, sau đó bơm kem tươi hay kem lạnh làm nhân. Loại bánh này có khá nhiều biến thể, như thay vì bột quế thì họ sẽ phủ vụn hạnh nhân, hay thêm siro và hoa quả, tùy theo sở thích của người ăn. Vì trong làng chỉ đi bộ và thời tiết rất lạnh nên sẽ mau đói. Tôi quyết định dừng chân tại một quán crepe ven đường, gọi một phần Trdelnik, crepe gà và nấm. Thêm một ly rượu vang nhỏ là đủ cho bữa trưa muộn.
Vì đến Cesky Krumlov vào những ngày cận Giáng sinh nên tôi có cơ hội được ghé thăm một khu Chợ Giáng sinh (Marché de Nol) tại quảng trường làng. Chợ Giáng sinh có lẽ là một trong những nơi vui vẻ và nhiều màu sắc nhất mà tôi từng đặt chân đến. Ở một khía cạnh nào đó, Chợ Giáng sinh cũng giống với Chợ Tết tại Việt Nam. Nhưng có lẽ vì khác biệt văn hóa và cách đón nhận lễ Giáng sinh tại Việt Nam khác với châu Âu, nên Chợ Giáng sinh là một thứ gì đó rất mới mẻ và lạ lẫm với tôi.
Tôi không nhìn Chợ Giáng sinh dưới khía cạnh tôn giáo, mà là góc nhìn của một đ.ứa t.rẻ đang lớn thấy những thứ lóng lánh đủ màu sắc trước mắt. Khu chợ rất đông vui. Người ta dựng cây thông Giáng sinh thật lớn, bán đủ món đồ ăn (khoai tây chiên, bánh mì, thịt nướng nóng hổi, đủ thứ loại bánh quy...), đồ uống (chocolate nóng, rượu vang, sữa...) và rất nhiều đồ trang trí Giáng sinh. Và cũng ở đây, lần đầu tiên tôi thấy được vòng xoay ngựa gỗ đúng kiểu truyền thống.
Những đám mây hồng lúc chiều tà
Hoàng hôn ở Cesky Krumlov, rất đẹp nhưng cũng rất ngạc nhiên...
Sau khi tham quan một vài nơi khác như nhà thờ, các ngõ ngách trong làng và ghé mua những món đồ lưu niệm, tôi trở ra cổng làng để đón chuyến xe lúc chiều muộn trở về Prague. Trên đường về cũng là lúc trời chuyển hoàng hôn. Ở Cesky Krumlov, hoàng hôn rất đẹp nhưng cũng rất ngạc nhiên. Cả ngày trời âm u, giữa trưa có chút nắng, nhưng khi hoàng hôn, cả bầu trời đột nhiên sáng bừng, chuyển sang màu hồng. Mọi thứ thật rực rỡ, thật ngọt ngào.
Khi tôi đứng trên cây cầu gỗ nhỏ nối con đường làng với quảng trường, tôi đã lặng người khi ngắm nhìn khoảnh khắc ấy. Mùa đông, gió thổi, sông chảy, mây hồng, lá rụng, cây khô, nắng nhẹ. Mọi thứ trở nên đúng thời điểm. Tôi đã thật sự tận hưởng và vô cùng trân trọng những giây phút ấy. Chỉ có đôi mắt và trí nhớ, chứ không có bất kỳ máy ảnh nào có thể ghi lại được hết vẻ đẹp của khoảnh khắc này...
Về thăm miền cổ tích Lô Lô Chải, Hà Giang Lô Lô Chải là một ngôi làng được ví như vùng đất cổ tích nhờ cảnh sắc thiên nhiên tuyệt mỹ. Những nếp nhà bình yên, xinh đẹp như bước ra từ trong truyện tranh xưa của nơi đây sẽ hớp hồn du khách ngay từ lần đầu gặp mặt. Làng Lô Lô Chải thuộc xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà...