Những bí ẩn quanh ngôi chùa… không sư
Có lẽ, đây là ngôi chùa duy nhất không có sư ở. Kể từ ngày chùa dựng, trải qua mấy trăm năm trường chinh, bao cuộc dâu bể chuyển dời, nó vẫn sừng sững, uy nghi và được bao phủ thêm bởi những lớp lang huyền thoại.
Khi màu thời gian dừng lại trên nóc đền thờ Phật, nơi có tượng đôi nghê tọa lạc và màu vôi đã chuyển sang màu đùng đục, cuối đuôi những viên ngói nam đã mục nát vì nắng mưa làm ải cả cái thứ đất sét đã qua lửa lò, than quạt… thì chùa đã trải qua ngót nghét 20 đời ông thủ từ làm công việc trông nom, chăm sóc.
Đó là chùa Hành Thiện (xã Xuân Hồng – huyện Xuân Trường – Nam Định). Chùa còn có tên gọi chùa Keo, tọa lạc trên địa thế nếu không hiển linh chắc cũng nhiều nỗi niềm khó nói…
Bí ẩn của lời nguyền
Địa thế làng Hành Thiện mang hình con cá chép. Chẳng biết có phải do “mắc cạn” mà không vượt qua được ải Vũ Môn để hóa rồng hay không mà đất Hành Thiện dành vị trí cao nhất để dựng chùa, thờ Phật.
Một khu đất cao nổi lên nơi đầu mõm rô (gò đất cao nơi cửa sông – PV), án ngữ bờ sông Hồng vào làng. Theo sách Trùng san Thần Quang Tự Phật tổ bản hành thiền uyển ngữ lục yếu tập, chùa Hành Thiện do Không Lộ Thiền sư (1016-1094) xây cất.
Sân chùa rộng mênh mông và hàng trăm năm nay chùa keo Hành Thiện không có sư ở…
Thiền sư Không Lộ vốn họ Dương, sinh ra trong một gia đình ngư phủ, xuất gia theo Thiền sư Lôi Hà Trạch. Tương truyền, khi ngài đắc đạo, Thiền sư Không lộ có khả năng bay trên không, đi trên mặt nước, có tài thuần phục được rắn, hổ.
Truyền thuyết còn kể rằng, trước khi viên tịch, ngài hóa thành khúc gỗ trầm hương, lấy áo đắp lên và khúc gỗ biễn thành tượng. Thánh tượng này nay còn lưu giữ trong hậu cung, quanh năm khóa kín cửa, cứ sau 12 năm, một chủ lễ và 4 viên chấp sự được cử ra để làm lễ trang hoàng tượng thánh.
Những người được cắt cử làm nghi lễ tôn nghiêm này phải ăn chay, mặc quần áo mới, sau khi rước thánh tượng từ cấm cung ra mới dùng nước dừa pha tinh bưởi để tắm gội và tô son lại cho tượng thánh. Họ buộc phải giữ bí mật những điều đã thấy khi trang hoàng tượng thánh. Điều đó càng tạo nên lớp sương bí ẩn bao bọc quanh ngôi chùa nhiều huyền thoại.
Những nét cổ kính, trầm mặc…
Dấu tích đầu tiên của chùa Keo là ở làng Dũng Nhân (huyện giao Thủy-Nam Định). Năm 1061, Không Lộ dựng chùa Nghiêm Quang bên hữu ngạn sông Hồng. Theo thời gian, nước sông Hồng xói mòn dần nền chùa đến năm 1611, một trận lũ lớn đã cuốn trôi tất cả các dấu tích, cả làng mạc lẫn ngôi chùa.
Dân làng Keo phải dời bỏ quê cha đất tổ, một nửa vượt sông đến định cư ở phía đông bắc tả ngạn sông Hồng (về sau dựng nên chùa Keo – Thái Bình) một phần xuống vùng Xuân Trường, dựng chùa Hành Thiện. Như thế, tính từ khởi nguyên, ngôi chùa mang tên Keo đã tồn tại gần 9 thế kỷ.
Và lịch sử của nó gắn với tên tuổi của Thiền sư Không Lộ – một vị quan văn võ kiêm toàn từ thời Lý, có tài bốc thuốc, chữa bệnh và ăm ắp một bụng kinh luân.
Video đang HOT
Trong sân chùa rộng mênh mông và hoang vắng, những mái chùa cong cong, những cột, kèo nằm “trơ gan cùng tuế nguyệt” cửa tam quan đóng im ỉm… Gác chuông hai tầng nằm lặng lẽ. Tất cả dường như đang “chìm đắm trong giấc ngủ”. Bà cụ bán hương, giấy vàng nơi cổng, co rúm lại bên cạnh những cây cột lim đã lên nước.
…vẫn còn giữ được gần như nguyên vẹn.
Biết tin có khách đến vãn cảnh chùa, cụ Vũ Ngọc Thức, sinh năm 1932, hiện đang là thủ từ trông coi chùa Hành Thiện, từ tốn mở cánh cửa lim nặng nề. Sự im lặng của gỗ lạt, gạch ngói hàng trăm năm được “cách ly” qua cánh cửa, một không gian thiền vỡ òa, ào đến trong sự kinh ngạc của khách.
Theo lời của cụ, những người đảm trách làm “thủ từ” đến nay đã mấy chục đời. Những thủ từ trước đều đã về với thiên cổ. Kể từ ngày chùa có mặt trên doi đất hình con cá chép này, mọi việc trông coi, trùng tu, lễ lạt nhất nhất đều do làng đảm nhiệm.
Ngày lễ hội, Ban quản lý chùa, đội bảo vệ toàn là những người do làng cắt cử. Ông chủ lễ được chọn phải là người có những “tiêu chuẩn” đặc biệt: hai ông bà còn song toàn, được ăn yến lão (thượng thọ), gia đình văn hóa, không có “tì vết”…
Ngay như đội bảo vệ, thủ từ cũng phải là những người có “gốc tích”. Riêng thủ từ phải theo kiểu “cha truyền, con nối”. Đời cha truyền đời con, đời sau kế thừa đời trước.
Người dân trong xóm chia nhau cắt cử trông giữ, trùng tu… chùa.
Cũng như những ngôi chùa khác, nghĩa là chùa cũng bao gồm cổng tam quan, cung chùa Phật, đền thánh, đền thờ đức tổ sư… Trước cổng chùa cũng có hai cây đa cổ thụ ngót bốn trăm tuổi soi bóng xuống mặt hồ hai dãy hành lang gồm bốn mươi gian gỗ lim, mái ngói vảy cá chạy dọc sân chùa lát gạch nghiêng, viên nào viên nấy cũng rắn đanh một màu lửa nung già dặn.
Giải thích sự thắc mắc của tôi về việc chùa không có bóng dáng của “áo thâm, nón tu-lờ” đứng ra làm nhiệm vụ khói nhang cho đức Phật, cụ Thức cười đầy cảm thông: “Ngay từ khi tôi lớn lên đã như thế. Bố tôi kế nghiệp của ông nội ông tôi thừa hành từ cụ cố… Đến đời tôi là đời thứ 7. Tất cả tên tuổi, ngày tháng của những ông thủ từ đều được ghi rõ trong cuốn “Hành Thiện xã chí”…”.
Những điều bí ẩn thường có lý do của nó. Còn lý giải cho sự lạ của ngôi chùa này là huyền thoại truyền miệng trong dân gian. Truyền rằng, khi Thiền sư Không Lộ dựng nên chùa, dân làng nơi đây không mấy mặn mà với khói nhang, tượng phật. Đức Thánh tổ giận dữ mới rời chùa đi nơi khác.
Chù Keo Hành Thiện.
Trong một đêm, Đức Thánh đan không biết bao nhiêu rọ tre, rồi tất cả tượng phật ngài đều cho cả vào đấy. Ngài ngả nón làm thuyền vượt sông Hồng sang đất Thái Bình, mang theo tất cả tượng phật về nơi đất mới. Cũng nội trong đêm ấy, khi dân làng Duy Nhất (huyện Vũ Thư – Thái Bình) tỉnh giấc đã thấy ngôi chùa sừng sững mọc lên. Đức Thánh tổ rời bỏ chùa cũ cùng với lời nguyền: sẽ không có sư nào đến ở đất Hành Thiện.
Theo lời nguyền đó, sau này, nhiều lần các vị sư theo sự phân công của Hội Phật giáo về trông coi chùa Hành Thiện, được dăm ba ngày chẳng hiểu vì lý do gì cũng đều khăn gói ra đi. Cũng từ đó, đất Hành Thiện “có tiếng” là đất kỵ sư. Câu chuyện truyền miệng ấy cứ tồn tại theo miệng nhân thế, nó làm cho ngôi chùa càng mang theo những nỗi niềm dã sử.
Giải mã chùa không sư
Song hành cùng với chùa Keo Hành Thiện là sự có mặt của chùa Keo Thái Bình. Hai ngôi chùa cùng gắn với tên tuổi của Thiền sư Không lộ, người có công truyền bá rộng rãi đạo Phật trong nhân gian. Sự thiên di của chùa trong khoảng thời gian dài mấy thế kỷ (năm khởi nguồn xây dựng tại làng Dũng Nhuệ – Giao Thủy là 1062 – thời tiền Lý) về đất Hành Thiện năm 1588 và “kinh qua” đất Thái Bình năm 1611.
Về mặt quy mô, chùa Keo Thái Bình bề thế hơn nhiều so với chùa Keo Hành Thiện, thế nhưng về kiến trúc là sự mô phỏng gần như nguyên vẹn. Cả hai ngôi chùa đều được dựng bằng gỗ lim, liên kết với nhau bằng mộng ngậm, đinh tre, mộng vược…
Cụ Thế – người kế nhiệm giữ chức thủ từ.
Nghiên cứu về kiến trúc chùa Keo là cả một quá trình đòi hỏi mất nhiều công sức, bởi nó tiêu biểu cho kiến trúc thời tiền Lý và hậu Lê, thời kỳ Phật giáo thịnh trị trên đất nước ta. Sau gần một ngàn năm Bắc thuộc, từ thế kỷ 10, dân tộc ta giành quyền tự chủ, bước vào kỷ nguyên độc lập, tự chủ cả về chính trị và văn hóa. Thái Bình và Nam Định khi đó được coi là những vùng “kinh tế mới”, gắn với phong trào mở rộng dân cư, khai hoang, lấn đất lập nghiệp.
Cùng với việc xây dựng cuộc sống vật chất của người dân thì các nhà sư cũng đến đây để xây dựng đền chùa, đảm bảo cuộc sống tâm linh cho các cư dân vùng đất mới.
Theo sử sách, vùng đất này có tên gọi là Keo hay vùng đất Giao Thủy, nơi nước sông gặp gỡ với nước sông, nước sông gặp với nước biển tạo nên những vùng hồ nước mênh mông. Trong cái khoáng đạt của tự nhiên như thế, con người phải đối mặt với biết bao thử thách, bao rình rập của tự nhiên, thú dữ.
Người ta cần tìm đến những đấng thần linh để được che chở về tinh thần. Đó cũng là lý do để những ngôi đền, chùa mọc lên với cường độ nhiều ở giai đoạn này. Còn căn cứ theo năm xây cất của chùa Keo Hành Thiện và chùa Keo Thái Bình, so sánh với năm sinh, năm mất của Thánh Không lộ Thiền sư có thể thấy được đó chẳng qua chỉ là sự mở rộng phạm vi truyền bá Đạo phật của các bậc tăng ni trong dân chúng. Đức Thánh Không Lộ sinh năm 1016, mất năm 1094.
Đến Hành Thiện sẽ không khó để gặp những cảnh bình yên…
Thời gian ngài sống gắn với việc xây cất chùa Keo trên đất Dũng Nhuệ (huyện Giao Thủy) sau này do trận lụt lớn năm 1611, chùa dời về đất Hành Thiện. Hơn 20 năm sau, chùa Keo Thái Bình mới được hoàn thành (năm 1632). Như thế, sự mở rộng về không gian đó chẳng qua là sự mở rộng phạm vi truyền bá của Phật giáo, do những bậc tăng ni hậu thế kế tiếp công việc của Thiền sư Không lộ.
Còn giải thích cho tích “chùa không sư Hành Thiện”, có chăng đó là do những chướng khí hay sự không hợp đất, hợp nước mà sinh ra đau ốm của những vị sư đã có lần đến với chùa rồi sau đó mau chóng ra đi!?
Cụ Thức cho hay: “Cả xóm Hành Thiện với 35 hộ dân, hiện tại đều sinh sống trên đất hương hỏa của nhà chùa. Trước, nguyên khu đất này được triều nhà Lý cắt đất cho Đức Không Lộ, nên cả làng phải thay nhau cắt cử để trông coi, thờ cúng ngài. Đó là “cái lý” mà người dân thôn Hành Thiện làm công việc nhang khói, trông coi chùa thay sư sãi”.
Theo VietNamNet
Huyền bí ngôi đền và rừng lim nghìn tuổi
Không ai dám xâm phạm ngôi đền cũng như có ý định chặt lim, kể cả nhặt củi khô về đun.
Hàng bao đời nay, ý thức bảo vệ ngôi đền linh thiêng và rừng lim di sản đã ăn sâu vào tâm khảm người dân nơi đây.
Đền Cao cổ kính và thâm nghiêm.
Gắn với di tích lịch sử đền Cao (toạ lạc tại núi Thiên Bồng, thôn Đại, xã An Lạc, thị xã Chí Linh, Hải Dương) có cách nay hàng nghìn năm, ngày 25/2, rừng lim cổ gồm 54 cây đã được Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam tổ chức công nhận là Cây di sản Việt Nam. Theo đó, những huyền tích tâm linh kỳ bí về ngôi đền 1030 tuổi và "rừng lim di sản" được hé mở...
Lời nguyền đền Cao
Được xây dựng cách đây đúng tròn 1030 năm, đền Cao là nơi thờ Đức Tam đại Vương Đức Minh- người con thứ ba trong một gia đình họ Vương có năm anh chị em (2 người con gái, 3 con trai).
Một điều lạ nữa, trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp và Mỹ, có tới vài chục tấn bom dội xuống khu vực này. Nhưng tuyệt nhiên, không cây lim nào đổ gục và đền Cao cũng không xây xát gì. Bởi vậy, ngoài những cây lim bị chặt hạ trước đó, 54 cây lim còn lại đều nguyên vẹn, hợp thành một rừng lim cổ và lạ giữa đồng bằng.
Tương truyền, cả 5 anh chị em ruột của gia đình họ Vương đều có công giúp vua Lê Đại Hành đánh thắng giặc Tống (năm 981). Sau khi công cuộc "Phá Tống bình Chiêm" thành công, vua Lê Đại Hành (bấy giờ đóng đô ở Hoa Lư, Ninh Bình) muốn vời cả 5 anh chị em nhà họ Vương về cung để khao quân thưởng tướng. Nhưng nghe tin vương phụ, vương mẫu của 5 vị tướng quân, trên đường trở về quê gốc (là Nghệ An bây giờ) bị đắm thuyền và mất, nên xin khất vua, 5 vị tướng quân trở về nhà chịu tang cha mẹ trước.
Vào một đêm giông tố, sấm sét nổi lên ầm ầm sáng cả một vùng Dược Đậu trang. Trong giây lát năm anh em họ Vương đã biến vào ánh chớp, để lại trần gian muôn nuối tiếc...
Được tin, nhà vua vô cùng thương tiếc, liền cho lập Đền, cắt ruộng công dùng vào việc đèn hương thờ phụng mãi về sau và phong Thượng Đẳng Phúc Thần cho 5 vị tướng quân. Các triều đại tiếp theo đều có sắc phong thêm mỹ tự. Hiện nay, trong đền Cao còn lưu giữ được 12 đạo sắc. Theo đó, đền Cao thờ Tam Đại Vương Đức Minh, đền Bến Tràng thờ Tứ Đại Vương Đức Xuân, đền Bến Cả thờ Ngũ Đại Vương Đức Hồng, đền Cả thờ Nhị Đại Vương Thị Đào và Vương Thị Liễu.
Lịch sử đền Cao, cũng như ba ngôi đền nói trên đều chỉ được hé mở vào năm 1988, khi ông Dương Văn Diệm- Trưởng ban Khánh Tiết đền Cao đề nghị với các cụ biết chữ Nho trong làng, đề nghị với xã, huyện, tỉnh, xin được mở Sắc phong và Ngọc phả. Vậy là hơn 1.000 năm trước đó, bao đời người dân thôn Đại và các nơi lân cận mỗi khi nhang đèn khấn lạy chỉ biết tâu: "Con khấn lạy Tứ vị Đức Đại Vương, Nhị vị Đức Thánh Triều". Câu hỏi vì sao lịch sử đền Cao lại được giữ kín suốt dọc dài lịch sử được trả lời khi 12 đạo Sắc phong được mở. Đó là bởi lời nguyền từ các cụ xa xưa truyền lại: "Lịch sử đền Cao, biết không được nói, không biết không được hỏi".
Đưa chúng tôi trở về lịch sử, cụ Dương Thị Phu - Thủ từ đền Cao trầm ngâm kể: Lịch sử nước Việt là lịch sử giữ nước. Biết bao thế lực thù địch muốn xâm phạm bờ cõi nước Nam. Khi kéo quân đến đây, chúng đều muốn phá hết đình chùa miếu mạo của ta. Đền Cao trước đây chỉ nhỏ giống như một ngôi miếu, lại được rừng lim um tùm tươi tốt bao phủ. Biết bao đời các cụ nhà ta, vì muốn gìn giữ đền khỏi sự tàn phá của quân xâm lược, đã đặt ra lời nguyền giấu kín tung tích đền Cao.
Rừng lim di sản
Bườu mặt cáo ở gốc lim 700 tuổi
54 cây lim còn lại ở đền Cao đã được công nhận là cây di sản. Không biết chính xác rừng lim có từ bao giờ, nhưng các già làng đều cho rằng, năm xưa dựng đền thờ Đức Thánh họ Vương, lim được chọn làm cây trồng bảo vệ đền. Ông Nguyễn Ngọc Sinh, Chủ tịch Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam cho biết, cách đây 10 năm, các nhà khoa học Viện Khoa học Lâm nghiệp có tiến hành các biện pháp khoa học xác định tuổi của các cây lim ở đền Cao. Kết quả cho thấy, 54 cây lim còn đến nay có tuổi khoảng trên dưới 700 tuổi. Đây là rừng lim có tuổi thọ cao nhất nhì Việt Nam hiện nay.
Dõi theo cánh tay chỉ của cụ Dương Thị Phu, chúng tôi nhận thấy các gốc lim, dù được trồng ở cận kề chân núi, sát với đường đi, hay trồng trên đỉnh núi bao bọc lấy đền, vẫn đều nguyên vẹn. Đem thắc mắc "vì sao rừng lim quý như vậy mà không có... lâm tặc" hỏi cụ, cụ cười trả lời chúng tôi: "Những năm 50 thế kỷ trước, thấy nhiều gốc lim to đẹp, vài cán bộ xã chỉ đạo cho người chặt lim về đóng bàn ghế, giường tủ, cày bừa... Các cụ thôn Đại thấy vậy, ùa nhau chạy lên đền, rồi cứ 2, 3 cụ ôm một gốc cây không cho cưa. "Cưa chúng tôi trước rồi hãy cưa lim"- các cụ bảo thế. Vậy là công cuộc "hạ rừng lim" phải dừng lại. Nhưng cũng có 16 gốc lim bị chặt trước đó và đem về đóng đồ dùng. Một thời gian sau, nhưng người dùng đồ đóng từ gỗ lim của đền thi nhau mang giường tủ, bàn ghế lên đền làm lễ trả. Hỏi ra mới biết, những ai chặt lim, xẻ lim làm đồ dùng đều tự dưng gặp hoạ. Nhẹ thì tiêu tán tài sản, nặng thì điên dở hoặc chết. Từ bấy đến nay, người dân địa phương ai cũng ra sức bảo vệ rừng lim.
Ly kỳ hay là "bướu" mặt cáo
Cụ Dương Thị Phu kể về sự tích bướu mặt cáo.
Cụ Phu cho biết, trong số 54 cây lim ở đền Cao thì cây lim lớn nhất, kỳ lạ và cũng gây tò mò nhiều nhất chính là cây lim ở phía Tây của đền. Trên cây có một chiếc bướu hình mặt cáo, cũng có người gọi là đầu hổ. Nhìn trực diện, cái bườu này giống hệt một chiếc đầu cáo. Nhìn từ trên xuống, lại giống một chú khỉ lông vàng.
Không biết chiếc bướu xuất hiện từ bao giờ nhưng người dân nơi đây đã thêu dệt nên câu chuyện linh thiêng về ông Tổ Cụt trong chiếc bướu này. Ngay dưới gốc cây, một ban thờ Tổ được dựng lên, bởi thế quanh năm có người đến thắp hương khấn vái, lúc nào không gian nơi đây cũng thoang thoảng mùi hương trầm.
Nhấp một ngụm nước trà, giọng đều đều cụ Phu kể: Truyền thuyết kể lại rằng, từ xa xưa lắm rồi, lúc đó người Tàu còn đô hộ xứ ta, chúng giết hết đàn ông chỉ để lại 12 cô gái xinh đẹp. May mắn có một người đàn ông trốn thoát và nấp vào bãi dứa. Con chó của giặc đánh hơi được, chúng chọc giáo, chém phải tay ông. Giữa lúc nguy cấp thì một con cáo nhảy từ bụi dứa ra đánh lừa được giặc, nhờ đó ông thoát chết. Sau này, chính ông đã bày mưu để 12 cô gái đuổi giặc đi. Khi đất nước thanh bình trở lại, ông đi lại với cả 12 cô. Đây chính là nguồn gốc sinh sôi, nảy nở ra 12 dòng họ của nước Việt. Cái bướu mặt cáo có lẽ chính là sự hóa thân của ông Tổ Cụt.
PGS.TS Nguyễn Đình Hòe, Chủ nhiệm Bộ môn Quản lý môi trường, khoa Môi trường, ĐH Khoa học tự nhiên, ĐHQG Hà Nội, giải thích, chiếc bướu này có thể là do nấm hoặc một số loại nấm đặc hữu như linh chi phát triển thành. Qua thời gian, chúng phát triển nhiều lên và ngẫu nhiên có hình dáng đó, được dân gian gắn cho trí tưởng tượng của mình. Về lý thuyết thì bất kỳ cây sống lâu năm nào cũng có thể xuất hiện những chiếc bướu sần sùi trên thân cây. Tuy nhiên, đây cũng là một niềm tin, một mong ước được phù hộ độ trì, đồng thời cây lim trở thành nơi thần thánh để người dân tìm về, thì đó cũng là điều đáng trân trọng.
Theo Gia đình
Bí ẩn lời nguyền trên bãi đá cổ Sa Pa Hơn 80 năm qua, các chuyên gia cả trong nước và quốc tế đã đến với bãi đá cổ ở Sa Pa (Lào Cai) để mong tìm được câu trả lời chính xác cho những hình khắc bí ẩn mà bấy lâu, người bản địa cho rằng đó là những lời nguyền của tổ tiên. Thung lũng Mường Hoa hình chảo nghiêng là...