Những bí ẩn khó giải trên cây đèn hình người quỳ
Có nhiều giả thiết, tranh luận khác nhau về ý nghĩa của các chi tiết, hình tượng trên cây đèn hình người quỳ.
Có nhiều giả thiết, tranh luận khác nhau về ý nghĩa của các chi tiết, hình tượng trên cây đèn hình người quỳ.
Có nhiều giả thiết, tranh luận khác nhau về ý nghĩa của các chi tiết, hình tượng trên cây đèn hình người quỳ. Chính những tranh luận mà giới nghiên cứu dành cho nó đã thể hiện được sự phong phú, đa chiều ẩn chứa sau hiện vật.
Vài chục ý kiến khác nhau
Có lẽ, trong hệ thống Bảo vật Quốc gia, cây đèn hình người quỳ có nhiều ý kiến khác nhau nhất về nhiều mặt mà theo TS Ngô Thế Phong, Hội Nghiên cứu khoa học Đông Nam Á – Việt Nam thì đến nay có không dưới 30 ý kiến về hiện vật này. Tựu chung lại có 3 quan điểm chính. Một là so sánh pho tượng với nghệ thuật La Mã. Hai là so sánh pho tượng với nghệ thuật Hán. Ba là tượng mang sắc thái bản địa. Sở dĩ, có cuộc tranh luận này là do hiện vật chứa đựng rất nhiều điều lạ lùng khó lý giải.
Hiện vật này được nhà khoa học người Thụy Điển O. Janse khai quật năm 1935 trong một ngôi mộ gạch ở Lạch Trường, Thanh Hóa. Sau khi khai quật và xử lý, O. Janse đã so sánh pho tượng này với các tượng thần La Mã.
Theo TS Ngô Thế Phong: “Nghệ thuật đúc tượng của người Việt cổ thời kỳ văn hóa Đông Sơn có nhiều điểm thú vị, khác biệt hoàn toàn so với văn hóa cùng thời ở những khu vực khác. Thứ nhất, tượng Đông Sơn có kích thước nhỏ. Thứ hai, các tượng Đông Sơn thường không đi vào miêu tả các chi tiết và ít chú ý đến tỷ lệ giải phẫu. Các nghệ nhân Đông Sơn chủ yếu đi vào miêu tả thần thái của đối tượng nên nhìn rất sống động”. Tượng tập trung miêu tả các hoạt động như người đang múa hát, săn b.ắn, cõng nhau… Trong khi đó, tượng phương Tây miêu tả chi tiết các bộ phận cơ thể, thậm chí, họ có quy định rõ ràng tính cân đối của các tỉ lệ giải phẫu như đầu, chân, tay…
Một số nhà nghiên cứu về tượng thời kỳ Đông Sơn cũng đồng nhất với quan điểm này và cho rằng: Nghệ thuật tượng Đông Sơn không đi vào miêu tả chi tiết mà chỉ tập trung miêu tả hoạt động một cách cân đối, hài hòa. Chẳng hạn như các tượng người hoan lạc gắn trên thạp đồng Đào Thịnh, tượng hai người cõng nhau thổi khèn… Những tượng này thường được gắn vào một hiện vật nào đó như dao găm cán hình người hay dao găm có cán hình voi và hai con rắn quấn vào nhau. Tượng đơn lẻ, rời rất ít khi được phát hiện.
Thân tượng được gắn 3 chạc đĩa đèn hình chữ S không giống với nghệ thuật tượng Đông Sơn
Miêu tả chi tiết
Nhìn vào tổng thể nghệ thuật tượng thời kỳ Đông Sơn và đối chiếu với một số nghiên cứu riêng về tượng cây đèn hình người quỳ thì có thể thấy dường như bức tượng này “nằm bên lề quỹ đạo” của nghệ thuật Đông Sơn.
Theo hồ sơ bảo vật lưu trữ tại Bảo tàng Quốc gia thì tượng cây đèn hình người quỳ có niên đại cách nay khoảng 2.000 – 1.700 năm. Chiều cao 40cm, dài 30cm và rộng 27cm. Cây đèn được tạo dạng tượng tròn hình người đàn ông mình trần, đóng khố, tư thế đang quỳ hai tay nâng đĩa đèn. Tượng có khuôn mặt thon dài, mắt mở to, miệng hơi mỉm cười. Đầu tượng được gắn vương miện tóc để chỏm. Hai vai và lưng tượng được gắn 3 chạc hình chữ S, mỗi chạc đỡ một đĩa đèn và gắn một hình người cũng trong tư thế quỳ. Trên hai đùi và đằng sau tượng gắn tượng 4 nhạc công đang thổi sáo trong tư thế quỳ. Cánh tay, cổ tay người đàn ông đeo trang sức, hoa tai hình khuyên, to.
TS Ngô Thế Phong nhận định: “Tượng có niên đại khoảng giai đoạn Đông Sơn muộn – hậu Đông Sơn nhưng nghệ thuật tượng lại không hoàn toàn giống với bất kỳ pho tượng nào cùng thời kỳ đã từng phát hiện”.
Video đang HOT
Khi phát hiện ra tượng cây đèn hình người quỳ trong ngôi mộ gạch, nhà khảo cổ học O. Janse cũng nhận định: Chủ nhân của ngôi mộ có thể là một thủ lĩnh người địa phương, nhưng phong cách tượng lại khác so với nghệ thuật tượng Đông Sơn. Cơ sở đưa ra lập luận này đó là ở Việt Nam và Trung Quốc đã phát hiện được một số tượng có kiểu dáng tương tự được chôn trong mộ gạch cùng với rất nhiều đồ tùy táng khác, trong đó có những hiện vật như công cụ sản xuất, nhạc khí mang phong cách Đông Sơn.
Căn cứ vào quy mô và độ phong phú các đồ tùy táng của mộ, ông suy đoán rằng, chỉ có những thủ lĩnh, gia đình giầu có thì mới có được những tượng như là cây đèn hình người quỳ nhằm thể hiện quyền uy, giầu có, danh giá…
Tượng cây đèn hình người quỳ mang đậm phong cách phương Tây.
Dấu ấn La Mã
Qua những cách miêu tả chi tiết trên bức tượng, hầu hết các học giả phương tây thống nhất quan điểm cây đèn hình người quỳ mang phong cách La Mã. Nhưng lý giải về con đường nào dẫn đến những giao thoa văn hóa này thì còn nhiều ý kiến chưa đồng nhất.
TS Ngô Thế Phong cho rằng, một số đặc điểm trên khuôn mặt như mũi, râu, mắt và mũ, chạc đèn… có ảnh hưởng từ bên ngoài. Cụ thể, khuôn mặt hơi dài, mũi cao, mắt hình thấu kính, ria cong vểnh, râu quai nón, mũ đội, chưa gặp trên các tượng Đông Sơn khác. Hình người gắn trên vai đỡ một chạc hình chữ S có đĩa đèn phụ cũng không phải là phong cách quen thuộc của nghệ thuật Đông Sơn.
Vậy tại sao lại có sự giao thoa sớm như vậy với Địa Trung Hải cách đây 2.000 năm? Hiện nay, có 2 giả thiết về tiếp xúc văn hóa. Ý kiến thứ nhất là bằng đường biển, qua Trung Đông, tiểu lục địa Ấn Độ đến Đông Nam Á. Ý kiến thứ hai là bằng con đường lục địa, qua Trung Quốc đến Việt Nam. Bằng chứng cho giả thiết này là các phát hiện khảo cổ ở Vân Nam (Trung Quốc) có phát hiện được một vài tượng nhỏ hình người quỳ, gần giống với cây đèn hình người quỳ ở Lạch Trường.
Trong hai giả thiết trên, TS Ngô Thế Phong thiên về luồng ý kiến thứ nhất là văn hóa hậu Đông Sơn tiếp xúc với văn hóa La Mã qua đường biển. Hiện ở Thái Lan đã tìm thấy cây đèn La Mã bằng đồng ở Pông Tuk (tỉnh Kanchanaburi, miền Trung Thái Lan), hay những đồng t.iền La Mã trong văn hóa Ốc Eo ở miền Nam Việt Nam và những đồng t.iền tương tự ở Quảng Đông (Trung Quốc) có niên đại khoảng đầu Công nguyên, cùng thời với niên đại của cây đèn hình người quỳ.
(còn nữa)
“Tượng cây đèn hình người quỳ là hiện vật độc đáo trong số ít những cây đèn cùng loại thuộc thời kỳ hậu Đông Sơn, phản ánh sự giao thoa giữa văn hóa Đông Sơn với các nền văn hóa khác. Cây đèn với hình khối tạo tác và hoa văn trang trí thể hiện tài năng nghệ thuật cũng như tư duy thẩm mỹ và khả năng tiếp nhận, thích ứng của người Việt cổ hàng ngàn năm trước”.
(Trích cẩm nang “Bảo vật Quốc gia” của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)
Đại Dương
Theo_Kiến Thức
Tàn tích thành phố tráng lệ bậc nhất thời cổ đại
Kết quả các cuộc khai quật trên quy mô lớn đã phác thảo diện mạo một thành phố tráng lệ bậc nhất thời cổ đại thuộc lãnh thổ Syria ngày nay.
Nằm ở tỉnh Homs Governorate thuộc lãnh thổ Syria ngày nay, thành phổ cổ Palmyra được coi là một trong những thành phố tráng lệ bậc nhất thời cổ đại cách đây 2.000 năm. Có lịch sử hình thành từ 2.000 năm TCN, tầm quan trọng của thành phố Palmyra được khẳng định vào khoảng năm 300 TCN, khi các đoàn buôn coi nó là một trạm dừng chân giữa Lưỡng Hà và Ba Tư. Vị trí chiến lược và sự thịnh vượng của Palmyra đã thu hút sự quan tâm của người La Mã, những người nắm quyền kiểm soát thành phố sau Công nguyên. Nổi tiếng vì vẻ đẹp lãng mạn, Palmyra từng khiến hoàng đế La Mã Hadrianus mê mẩn viếng thăm thành phố này năm 129. Ông đã tuyên bố rằng thành phố được hưởng quy chế tự do và đổi tên thành Palmyra Hadriana. Từ thế kỷ thứ 3, thương mại của Palmyra giảm sút do sự suy yếu của đế chế La Mã cũng như những bất ổn ở khu vực. Trong hàng chục thế kỷ sau đó, Palmyra nhiều lần bị phá hủy do các cuộc chiến tranh và chỉ còn là một ngôi làng nhỏ trên nền phế tích của thành phố cổ. Năm 1929 - 1932, khi người Pháp kiểm soát vùng đất Syria, dân làng ở Palmyra được sơ tán để phục vụ cho việc khai quật thành phố cổ. Kết quả các cuộc khai quật trên quy mô lớn đã phác thảo diện mạo một thành phố Palmyra hết sức tráng lệ với những đền đài, nhà hát đồ sộ. Các công trình của thành phố mang nặng ảnh hường Hy Lạp - La Mã với những hàng cột thanh thoát, phù điêu chạm nổi tinh tế. Sau nhiều thập niên được bảo tồn, vào năm 2012 - 2013, các di tích ở Palmyra đã bị hư hại do cuộc xung đột giữa quân chính phủ Syria và lực lượng nổi dậy. Đến tháng 5/2015, thành phố cổ này lại trở thành tâm điểm chú ý của thế giới khi trở thành nơi giao tranh ác liệt giữa quân đội chính phủ Syria và phiến quân Hồi giáo IS. Tình hình bất ổn ở Syria khiến nhiều người quan ngại rằng di tích lịch sử quý giá này sẽ bị xóa sổ trong tương lai gần.
Nằm ở tỉnh Homs Governorate thuộc lãnh thổ Syria ngày nay, thành phổ cổ Palmyra được coi là một trong những thành phố tráng lệ bậc nhất thời cổ đại cách đây 2.000 năm.
Có lịch sử hình thành từ 2.000 năm TCN, tầm quan trọng của thành phố Palmyrađược khẳng định vào khoảng năm 300 TCN, khi các đoàn buôn coi nó là một trạm dừng chân giữa Lưỡng Hà và Ba Tư.
Vị trí chiến lược và sự thịnh vượng của Palmyra đã thu hút sự quan tâm của người La Mã, những người nắm quyền kiểm soát thành phố sau Công nguyên.
Nổi tiếng vì vẻ đẹp lãng mạn, Palmyra từng khiến hoàng đế La Mã Hadrianus mê mẩn viếng thăm thành phố này năm 129. Ông đã tuyên bố rằng thành phố được hưởng quy chế tự do và đổi tên thành Palmyra Hadriana.
Từ thế kỷ thứ 3, thương mại của Palmyra giảm sút do sự suy yếu của đế chế La Mã cũng như những bất ổn ở khu vực.
Trong hàng chục thế kỷ sau đó, Palmyra nhiều lần bị phá hủy do các cuộc chiến tranh và chỉ còn là một ngôi làng nhỏ trên nền phế tích của thành phố cổ.
Năm 1929 - 1932, khi người Pháp kiểm soát vùng đất Syria, dân làng ở Palmyra được sơ tán để phục vụ cho việc khai quật thành phố cổ.
Kết quả các cuộc khai quật trên quy mô lớn đã phác thảo diện mạo một thành phố Palmyra hết sức tráng lệ với những đền đài, nhà hát đồ sộ.
Các công trình của thành phố mang nặng ảnh hường Hy Lạp - La Mã với những hàng cột thanh thoát, phù điêu chạm nổi tinh tế.
Sau nhiều thập niên được bảo tồn, vào năm 2012 - 2013, các di tích ở Palmyra đã bị hư hại do cuộc xung đột giữa quân chính phủ Syria và lực lượng nổi dậy.
Đến tháng 5/2015, thành phố cổ này lại trở thành tâm điểm chú ý của thế giới khi trở thành nơi giao tranh ác liệt giữa quân đội chính phủ Syria và phiến quân Hồi giáo IS.
Tình hình bất ổn ở Syria khiến nhiều người quan ngại rằng di tích lịch sử quý giá này sẽ bị xóa sổ trong tương lai gần.
Theo_Kiến Thức
Miêu tả g.ây s.ốc của người đàn ông đầu tiên đi vào "cổng địa ngục" Nhà thám hiểm nổi tiếng thế giới, George Kourounis, 44 t.uổi, công dân Canada đã trở thành người đầu tiên đi vào "Cánh cổng địa ngục". Nhà thám hiểm George Kourounis chụp ảnh tại hố lửa mang tên "Cổng địa ngục". Hình ảnh đáng sợ được nhà thám hiểm Kourounis chia sẻ cho thấy anh được thả xuống độ sâu 30 m và...