Những ai ngăn cản cuộc chiến leo thang?
Ai đưa cỗ máy chiến tranh Mỹ đến Việt Nam là câu chuyện dài, rất dài, nhưng những ai khiến Nội các Lyndon Johnson đi đến quyết định rút dần khỏi Việt Nam là câu chuyện chỉ xảy ra trong vài tháng.
Chỉ vài tháng, sau sự kiện Mậu thân 1968, cuộc tham chiến của Mỹ tại Việt Nam đã bắt đầu được định đoạt, từ những bàn tính trong Nhà Trắng, Lầu Năm Góc và Bộ Ngoại giao…
Từ yêu cầu của William Westmoreland
Theo Townsend Hoopes, nguyên Thứ trưởng Quốc phòng Mỹ phụ trách không quân 1967-1969 (trong bài viết trên The Atlantic Monthly), sự kiện Mậu Thân đã làm thay đổi nghiêm trọng đánh giá về sự tham chiến của Mỹ tại Việt Nam. Tất cả bắt đầu vào ngày 26-2-1968, khi bức điện của tướng Earle Wheeler gửi về Washington từ Sài Gòn. Trước đó ít ngày, Wheeler được Lyndon Johnson phái sang Nam Việt Nam tìm hiểu xem tướng William Westmoreland thật sự cần gì. Nội dung bức điện ghi rằng Westmoreland cần bổ sung thêm 206.000 quân, chia làm ba đợt – đợt một với 107.000 quân gửi sang Việt Nam vào trước ngày 1-5-1968; đợt hai 43.000 quân vào trước 1-9-1968 và đợt cuối 56.000 quân vào trước tháng 12 cùng năm. Trong đó, bộ binh gồm 171.000 người, không quân 22.000 và hải quân 13.000. Với những người tham gia cuộc họp về bức điện Wheeler, hầu hết đều ngạc nhiên.
Tư lệnh Hải quân Paul Ignatius lên tiếng: Tại sao lính Mỹ đã giết được hơn 30.000 kẻ thù sau sự cố Mậu Thân mà Westmoreland lại cần bổ sung quân? Townsend Hoopes cũng có ý kiến tương tự. Phần mình, Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara nói rằng, nếu đáp ứng yêu cầu Westmoreland, Mỹ phải vét sạch lực lượng dự bị với tổn phí 10 tỉ USD trong 12 tháng đầu (thời điểm đó, McNamara đang lập bản kế hoạch ngân sách quốc phòng, năm tài khóa bắt đầu từ tháng 7-1968, với tổng ngân sách khoảng 90 tỉ USD, trong đó 30 tỉ USD dành cho cuộc chiến Việt Nam).
Tổng thống Lyndon Johnson trong chuyến kinh lý Nam Việt Nam (tháng 10-1966)
Trước đó, khi chuẩn bị thay McNamara ghế Bộ trưởng Quốc phòng, Clark Clifford đã được Tổng thống Johnson giao quyền chỉ huy nhóm Lực lượng đặc biệt về Việt Nam với mục đích điều tra yêu cầu Westmoreland. Bản thân Clifford luôn hoài nghi khả năng thành công quân sự tại chiến trường Việt Nam. Ông thường hỏi đồng nghiệp Lầu Năm Góc rằng, liệu việc tăng cường quân số Mỹ tại Việt Nam có giúp Washington tiếp cận gần hơn các mục tiêu chính trị? McNamara cũng bắt đầu nhìn vấn đề bằng cách đánh giá mang khuynh hướng bi quan. Cùng ý nghĩ McNamara và Clifford là Thứ trưởng Quốc phòng Paul Nitze.
Nhân vật này luôn yêu cầu đánh giá lại sự can thiệp tại Việt Nam với góc nhìn rộng hơn ở khía cạnh quyền lợi cụ thể và rằng “bất luận kết quả ở Việt Nam như thế nào, chúng ta cũng sẽ thất bại nếu cuộc chiến lan rộng đến điểm quân sự trực tiếp đối mặt Trung Quốc và Liên Xô”. Trong cùng thời gian, thông tin về yêu cầu bổ sung quân của Westmoreland được báo chí tiếp cận. Quốc hội chỉ trích Westmoreland. Thăm dò của Viện Gallup cho thấy 49% dân Mỹ bắt đầu nghĩ rằng sự tham chiến bằng cách đổ quân Mỹ sang Việt Nam là chính sách sai lầm. Tờ New York Times gọi đó là “một thảm họa”…
Ngày 15-3-1968, Tổng thống Johnson nhận bản ghi nhớ 8 trang tuyệt mật gửi từ Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc Arthur Joseph Goldberg, ghi rằng Mỹ nên ngừng đánh bom Việt Nam để bắt đầu quá trình thương lượng. Trong cuộc họp bộ sậu chiến tranh vào thứ Bảy 16-3-1968, Johnson – khi nhắc đến yêu cầu Goldberg – nói: “Có một điều tôi muốn làm rõ: Tôi sẽ không ngưng đánh bom. Tôi nghe quá nhiều tranh luận về chuyện này và bây giờ tôi không muốn bàn cãi thêm. Tôi đã quyết định. Tôi sẽ không ngưng”. Hôm sau, Johnson đến khu vực Trung Tây Mỹ để phát biểu tại Liên đoàn Doanh nghiệp quốc gia và Liên đoàn Nông dân quốc gia. Nện tay vào bục thuyết trình, Johnson gằn giọng: “Tổng thống của các bạn đến đây để yêu cầu các bạn cũng như mọi công dân khác trên đất nước này hãy cùng chúng tôi nỗ lực giành chiến thắng, giành hòa bình và hoàn thành công việc phải hoàn thành. Không nhầm lẫm gì trong vấn đề Việt Nam. Tôi không muốn bất kỳ người nào ở đây nghĩ ngược lại. Chúng ta sẽ chiến thắng”.
Trở về Washington DC tham dự Hội thảo chính sách đối ngoại quốc gia tổ chức tại Bộ Ngoại giao, Johnson lại nhấn mạnh sự quyết tâm giành chiến thắng tại Việt Nam. Trước thái độ Johnson, nhóm quân sự chủ trương “nghị hòa” bắt đầu chán nản. Townsend Hoopes điện Paul Warnke, thông báo mình sắp từ chức. Paul Warnke trấn an: “(Bộ trưởng Quốc phòng Clark) Clifford chưa bỏ cuộc. Tôi không nghĩ chúng ta lại bỏ cuộc khi nào Clifford còn cố gắng”.
Video đang HOT
Clark Clifford và Tổng thống Johnson
Bài diễn văn chuyển hướng
Ngày 22-3-1968, Johnson gặp nhóm cố vấn riêng (trong đó có tùy viên báo chí George Christian và cố vấn Harry McPherson). Đầu tháng 2-1968, vài ngày sau vụ Mậu Thân, Johnson đã yêu cầu Harry McPherson soạn bài diễn văn về chủ trương Mỹ xung quanh vấn đề Việt Nam. Một phần trong bài diễn văn – dù không nói đến việc tăng cường quân số Mỹ tại Việt Nam – có đoạn đề xuất kế hoạch động viên thêm 50.000 quân và khước từ tất cả đề nghị ngưng đánh bom Bắc Việt… Cần nhắc lại, một năm trước, mùa xuân 1967, McNamara từng đề nghị ngưng đánh bom một phần nhưng Johnson lúc đó vẫn từ chối…
Đêm 22-3-1968, trong trạng thái nửa tỉnh nửa ngủ, (cố vấn tổng thống) Harry McPherson nảy ra một ý quan trọng. Sáng hôm sau, ông viết vội bản ghi nhớ ngắn gửi Johnson, nội dung ngưng ném bom không điều kiện tại Việt Nam tại vĩ tuyến 20, đồng thời yêu cầu Hà Nội không tấn công Sài Gòn cũng như nhiều thành phố lớn khác tại Nam Việt Nam. Trước sự ngạc nhiên của McPherson, Johnson chuyển bản ghi nhớ cho Ngoại trưởng Dean Rusk rồi chuyển tiếp cho Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Ellsworth Bunker.
Ngày 25 và 26-3-1968, nhóm cố vấn cấp cao về vấn đề Việt Nam họp tại Nhà Trắng. Họ gồm Dean Acheson (Ngoại trưởng thời Harry Truman); George Ball (Thứ trưởng Ngoại giao thời John F. Kennedy và Lyndon Johnson); McGeorge Bundy (trợ lý đặc biệt Kennedy và cố vấn an ninh quốc gia cho Johnson); Douglas Dillon (Đại sứ Mỹ tại Pháp thời Dwight Eisenhower và Bộ trưởng Tài chính thời Kennedy); Cyrus Vance (Thứ trưởng Quốc phòng thời McNamara và chuyên gia gỡ rối ngoại giao của Johnson); Arthur Dean (chuyên gia đàm phán Triều Tiên); John J. McCloy (cao ủy tại Tây Đức thời Truman và trợ lý Bộ trưởng Chiến tranh thời Thế chiến thứ hai); tướng Omar Bradley (Chủ tịch Ban Tham mưu liên quân Hoa Kỳ đầu tiên); tướng Maxwell Taylor (cựu Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn); Henry Cabot Lodge (cựu Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn); Arthur Goldberg (Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc)… Trong cuộc họp, tất cả tin tức về chiến trường Việt Nam đều được trình bày, trong đó có thông tin từ Lầu Năm Góc, Bộ Ngoại giao, CIA…
Hai ngày sau, 28-3-1968, Clifford gặp riêng (cố vấn tổng thống) Harry McPherson trong văn phòng Ngoại trưởng Dean Rusk. Không nhân vật nào khác từ Lầu Năm Góc hiện diện trong cuộc họp bàn về việc chỉnh sửa bài diễn văn cho Johnson (dự kiến đọc vào 3 ngày sau). Nội dung tất nhiên không đáp ứng yêu cầu tăng quân của Westmoreland mà theo đề nghị rút quân dần được đưa ra bởi nhóm “nghị hòa” (Townsend Hoopes, Paul Nitze, Phil G. Goulding…) dưới sự cầm chịch của Clark Clifford. Bản diễn văn nháp cuối cùng được nhóm Clark Clifford-Dean Rusk cùng nhất trí có nội dung rằng Mỹ chấm dứt đánh bom vô điều kiện tại vĩ tuyến 22 và hứa ngưng đánh bom hoàn toàn nếu Hà Nội đảm bảo họ không tấn công khu phi quân sự cũng như các thành phố lớn tại Nam Việt Nam.
Sáng thứ Sáu 29-3-1968, Harry McPherson nộp bản diễn văn cho Johnson, với mảnh ghi chú nhỏ ghi rằng bài diễn văn “thể hiện quan điểm của các cố vấn hàng đầu tổng thống”… 9 giờ tối Chủ nhật 31-3-1968, từ Nhà Trắng, Lyndon Johnson đọc bài diễn văn: “Chào các công dân Mỹ, tối nay tôi muốn nói với các bạn về hòa bình tại Việt Nam và Đông Nam Á… Tôi bắt đầu thực hiện bước đầu tiên trong việc giảm dần tình trạng leo thang cuộc xung đột. Chúng tôi sẽ giảm mức độ thù địch…, một cách đơn phương và lập tức”. “Chúng tôi sẽ ngừng đánh bom” – Johnson nói tiếp – tại những khu vực có gần 90% dân số Bắc Việt và rằng “tôi mong ông Hồ Chí Minh phản hồi tích cực cho bước tiến mới đi đến hòa bình này”…
***
Tại sao Lyndon Johnson cuối cùng ngã theo chủ trương hòa hoãn cho cục diện chiến trường Việt Nam một cách bất ngờ, so với loạt tuyên bố hiếu chiến chỉ mới vài ngày trước? Theo Townsend Hoopes, sự thay đổi của Johnson có lẽ do sự thắng thế tại cuộc bầu cử sơ bộ của ứng cử viên tổng thống Robert Kennedy; thái độ phản đối gay gắt cuộc leo thang chiến tranh Việt Nam trong Quốc hội và sự thù địch công khai của giới báo chí…
Trong sự kiện trên, vai trò của Clark Clifford rất đáng kể (chính Clifford là người đặt ra thuật từ “ Việt Nam hóa chiến tranh”). Ông đã thực hiện chiến dịch vận động không chỉ trong Lầu Năm Góc mà còn Bộ Ngoại giao cũng như nhiều thành viên quan trọng trong nhóm cố vấn cấp cao tổng thống. Nhận xét về quyết định ngưng leo thang chiến tranh Việt Nam của Johnson, Clifford nói: “Các tổng thống luôn có những quyết định khó khăn và đi đến quyết định theo nhiều cách kỳ lạ. Tôi chỉ có thể biết rằng quyết định này, khi cuối cùng được tiến hành, là một quyết định đúng”. Chính xác hơn, chiến dịch (chủ hòa) của nhóm Clark Clifford chỉ là giọt nước tràn ly. Bản thân Lyndon Johnson – trong một khoảnh khắc trực nghiệm cá nhân nào đó – đã nhận ra rằng sự theo đuổi chính sách can thiệp Việt Nam trực tiếp bằng hành động quân sự là không còn cần thiết…
Theo Cao Minh
PetroTimes
Hội chứng Việt Nam cơn ác mộng vẫn còn ám ảnh nước Mỹ
Không có những biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng, niềm vinh quang, lòng yêu nước hay bài học đạo đức thường thấy ở các đài tưởng niệm chiến tranh, Bức tường Chiến tranh Việt Nam chỉ là ký ức buồn đau của quá nhiều người Mỹ thời trai trẻ...
Phần lớn người Mỹ muốn nói hoặc đề cập tới một cuộc chiến lâu dài và tổn thất nhất của đất nước họ - cuộc chiến duy nhất mà Mỹ thất bại.
Kết quả là đầu những năm 1980, cuộc chiến ấy tạo ra một làn sóng thu hút: Hollywood, mạng lưới truyền hình, ngành công nghiệp âm nhạc hướng tới Việt Nam như một "điểm đến văn hoá"; các học giả, phóng viên, những cựu binh Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam thì tung ra hàng loạt ấn phẩm về cuộc xung đột, đặc biệt là những tâm điểm các bài học và hậu quả để lại.
Bức tường Chiến tranh Việt Nam chỉ là ký ức buồn đau của quá nhiều người Mỹ thời trai trẻ
Rất nhiều người cho rằng, cuộc chiến ấy đã làm tổn hại tới quan điểm, thể chế và chính sách đối ngoại của Mỹ. George R. Kennan mô tả, Chiến tranh Việt Nam "là tai họa tồi tệ nhất với mọi công việc mà Mỹ đảm nhận trong suốt 200 năm lịch sử".
Thất bại trong cuộc chiến, ảnh hưởng kinh tế do những khoản chiến phí khổng lồ (nhiều người ước tính là 167 tỉ USD) đã khiến cho nước Mỹ lâm vào tình trạng lạm phát hai con số, nợ liên bang tăng vọt, kinh tế và mức sống sụt giảm trong giai đoạn dài từ cuối những năm 1960 tới 1990.
Mỹ cũng phải trả giá đắt về chính trị cho Chiến tranh Việt Nam. Đó là lòng tin của người dân vào chính phủ giảm sút. Họ thấy hoài nghi về sự chân thực và năng lực của những người lãnh đạo.
Thực tế là sau cuộc chiến, ngày càng có nhiều người Mỹ hoài nghi và bất tín với chính quyền. Quân đội "mang tai tiếng" trong nhiều năm. Một điều chưa từng có trước đây: Nước Mỹ sau Chiến tranh Việt Nam không có sự tôn trọng hay tin tưởng của các tổ chức công chúng.
Họ lo lắng với lời kêu gọi của các quan chức trong việc can thiệp tại nước ngoài với ngọn cờ dân chủ, tự do. Lưỡng đảng thì nhất trí rằng, chính sách ngoại giao của Mỹ được ủng hộ từ những năm 1940 đã tan rã.
Phe đa số của đảng Dân chủ trong Quốc hội Mỹ năm 1973 còn ban hành nghị quyết Quyền quyết định chiến tranh, trong đó không cho phép tổng thống gửi quân đội ra nước ngoài chiến đấu hơn 90 ngày mà không có sự chấp thuận của quốc hội. Quan ngại bị sa lầy khiến nhiều người Mỹ tỏ ra miễn cưỡng với chính sách can thiệp quân sự tại các nước thuộc Thế giới thứ ba.
Khuynh hướng "tự cô lập mới" mà cựu Tổng thống Richard M. Nixon từng gọi là "Hội chứng Việt Nam" trở nên rõ ràng hơn trong những cuộc tranh cãi công khai về các chính sách can thiệp của Ronald Reagan tại Nicaragua và quyết định của George Bush cha với lực lượng Iraq tại Kuwait.
Mặc dù chiến thắng trong Chiến tranh vùng Vịnh thuộc về Mỹ và đồng minh, nhưng lo ngại về chính sách can thiệp lại xuất hiện trong những lần tranh cãi về cam kết điều động lực lượng gìn giữ hoà bình Mỹ của cựu Tổng thống Bill Clinton tại Somalia và Bosnia.
Rõ ràng là, hàng chục năm trôi qua khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, xung đột tiếp tục phủ bóng đen lên tâm trí nhiều người Mỹ. Và những nhà hoạch định chính sách ngoại giao cùng nhất trí nhiều điều rõ ràng là: Mỹ chỉ nên sử dụng vũ lực như một phương sách cuối cùng; chỉ khi lợi ích quốc gia rõ ràng liên quan; chỉ khi có sự ủng hộ mạnh mẽ của người dân và chỉ khi có khả năng giành chiến thắng nhanh chóng, ít tốn kém.
Người Mỹ đã trả giá đắt cho cuộc chiến tranh Việt Nam
Cuối cùng, còn một thực tế khác nổi lên. Người ta biết rõ điều ấy với sự trở về của các cựu chiến binh. Mỹ có vẻ lảng tránh với thực tế: hơn 2 triệu người đã tới Việt Nam; 1,6 triệu người trực tiếp tham chiến; 300.000 người bị thương, rất nhiều người gặp các vấn đề tâm lý; 2.387 người trong danh sách mất tích và hơn 58.000 người chết.
Thực tế, hầu như chính phủ Mỹ không làm gì để hỗ trợ các cựu chiến binh cùng gia đình của họ. Sau đó là sự xuất hiện của hàng loạt tác phẩm, phim ảnh, chương trình truyền hình mô tả cuộc sống của cựu binh Mỹ, những ký ức tồi tệ họ trải qua, chứng loạn thần họ gánh chịu khi tham chiến ở Việt Nam và cả khi đã trở về nhà.
Nhiều người đã nhắc tới khái niệm, các cựu binh tham chiến ở Việt Nam là nạn nhân của cuộc chiến. Cho dù nhiều cựu binh đã thành công khi trở lại cuộc sống của những người dân bình thường, nhưng rất nhiều người thất bại.
Sau chiến tranh, nhiều cựu binh Mỹ tự sát hơn số người bỏ mạng trong chiến tranh. Có lẽ hơn trong số một triệu người trở thành vô gia cư hoặc thất nghiệp. Gần 700.000 lính quân dịch, rất nhiều người xuất thân nghèo khó, giáo dục thấp không được hưởng trợ cấp xứng đáng. Họ rất khó khăn khi tìm kiếm việc làm, duy trì các quan hệ gia đình...Bản thân phải chịu đựng bệnh tật vì các loại hóa chất quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh như chất da cam hoặc mắc hội chứng rối loạn tâm lý sau chấn thương...
Dù có giảm hơn, nhưng ám ảnh Chiến tranh Việt Nam tiếp tục hằn sâu vào tâm lý người Mỹ. Trở lại năm 1988, bạn đồng hành tranh cử của Bush là Dan Quayle đã phải bảo vệ danh tiếng trước những thông tin được tiết lộ rằng, ông đã từng dùng những quan hệ chính trị của gia đình để vào Lực lượng phòng vệ quốc gia Indiana năm 1969, nhằm tránh chế độ quân dịch và khả năng phải thực hiện nhiệm vụ tại Việt Nam.
4 năm sau, Bill Clinton, ứng viên đảng Dân chủ tranh cử tổng thống, lại đối mặt với cáo buộc, ông đã tránh quân dịch và sau đó tổ chức cuộc biểu tình phản chiến năm 1969 khi theo theo học ở Anh. Mỗi ví dụ đều nhắc nhở người Mỹ về sự chọn lựa khó khăn của thanh niên Mỹ với một cuộc chiến mà rất nhiều người xem là "mơ hồ về đạo đức".
Người ta có thể gặp lại những ký ức nhức nhối khi tới thăm Bức tường Chiến tranh Việt Nam tại Washington DC - một trong những địa điểm thu hút nhiều du khách nhất khi tới thủ đô của Mỹ. Chỉ cao so với mặt đất vài mét, bức tường dài 75m gồm 72 tấm đá hoa cương đen quý hiếm ghép lại, tấm thấp nhất 20cm, cao nhất 3m, được đánh số thứ tự rất khoa học. Họ tên của hơn 58.000 lính Mỹ tử trận tại cuộc chiến tranh Việt Nam được khắc lên đá hoa cương.
Không có những biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng, niềm vinh quang, lòng yêu nước hay bài học đạo đức thường thấy ở các đài tưởng niệm chiến tranh, Bức tường Chiến tranh Việt Nam chỉ là ký ức buồn đau của quá nhiều người Mỹ thời trai trẻ...
Theo Vietnamnet
Cuộc sống Việt Nam những năm đầu thống nhất qua ảnh quốc tế Sau ngày thống nhất năm 1975, đất nước không còn tiếng bom đạn, cuộc sống thường ngày của người dân trở lại cảnh thanh bình, giản dị. Dòng người tấp nập vào một sáng đầu tháng 4/1980 tại thành phố Hải Phòng. Những năm đầu sau chiến tranh, xe đạp vẫn là phương tiện đi lại chủ yếu của người dân. Phóng viên...