Nhộn nhịp xóm lưỡi câu mùa lũ về ở An Giang
“Đã hơn 6 năm rồi, mùa lũ về xóm lưỡi câu này mới nhộn nhịp trở lại sau nhiều năm làm để sống qua ngày. Năm nay, lũ về sớm lại lớn nên bạn hàng tới đây đặt hàng nườm nượp. Vậy là làm “quyết liệt” ngày đêm mới kịp giao hàng”- ông Trần Văn Be (68 tuổi ngụ ấp Tây Khánh B, phường Mỹ Hòa, TP Long Xuyên ( tỉnh An Giang) hồ hởi nói.
Gia đình ông Be đã có trên 50 năm làm nghề này theo kiểu cha truyền, con nối và là hộ thâm niên nhất ở xóm “lưỡi câu” này.
Ông kể: Hiện ấp này đang có trên 180 hộ dân với gần 800 lao động thường xuyên với mức thu nhập từ 140.000- 160.000 đ/người/ngày tùy theo công đoạn sản xuất. Bình quân mỗi hộ gia công từ 40.000- 50.000 lưỡi câu/ngày…
Tuy một số công đoạn làm lưỡi câu được hỗ trợ từ máy móc…
Riêng gia đình ông Be còn đầu tư trên 15 máy dập, máy mài, máy uốn lưỡi câu cho một số hộ gia công tại nhà với giá mỗi máy từ 8 triệu- 15 triệu đồng.
Mỗi ngày ông đi thu lưỡi câu “thành phẩm” từ các cơ sở gia công rồi bán lại cho thương lái tại Long Xuyên, Châu Đốc, Đồng Tháp, miền Đông Nam Bộ, miền Trung và cả Campuchia nữa…
Trừ hết các khoản chi phí ông Be còn lời từ 700.000- 800.000 đ/ngày, tăng khoảng 30% so với các năm “nước lũ kém”.
Chị Nguyễn Thị Thu (50 tuổi)- người đã có trên 30 năm làm nghề nói: “Nghề này tuy thu nhập không nhiều nhưng được cái có công việc quanh năm; vừa làm lưỡi câu vừa có thể quán xuyến việc gia đình, phù hợp với người cao tuổi, phụ nữ và trẻ em xóm này. Nhà tui có 2 mẹ con cùng làm, mỗi ngày có được 250.000- 300.000đ, đủ trang trải các khoản sinh hoạt trong gia đình”.
Theo nhiều người dân chuyên làm lưỡi câu tại đây: Mùa nước nổi (từ tháng 8 đến tháng 11 hàng năm) là mùa cao điểm. Nhà nhà, người người nhộn nhịp lao động. Năm nay khí thế bắt đầu sớm hơn một tháng, do lũ về sớm.
Video đang HOT
… Nhưng một số công đoạn phải làm thủ công.
Nguyên liệu để làm lưỡi câu là thép. Nếu như trước kia, người ta sử dụng thép từ những sợi cáp phế thải thì nay dùng cả inox.
Để làm một chiếc lưỡi câu, đầu tiên là cho máy cán thẳng dây thép từ những cuộn lớn, chặt khúc đúng cỡ, dập ngạnh, mài lưỡi, sửa mũi, vô khuôn, uốn lưỡi, cắt 2 ngạnh, dập đít, trui, xóc bóng rồi đóng gói (từ 20- 100 chiếc/bọc tùy loại ).
Làng nghề Mỹ Hòa hiện sản xuất khoảng 50 chủng loại lưỡi câu như: lưỡi câu cá ngừ bò, câu cá ngát, cá đuối; lưỡi câu rắn, lưỡi câu ếch;… đáp ứng nhu cầu của đủ mọi nghề đi câu. Mỗi năm, làng nghề này sản xuất khoảng 200- 270 tấn lưỡi câu.
Lưỡi câu cá đồng hiện có giá bán bình quân 4.000 đ/trăm lưỡi; lưỡi câu cá đuối 30.000 đ/lưỡi; lưỡi câu cá mập giá 8.000- 10.000 đồng/lưỡi.
Ông Nguyễn Bá Thế (huyện Ba Tri- Bến Tre) cho biết: “Lưỡi câu ở đây làm rất sắc sảo, chất lượng cao, giá thành rẻ nên tui thường xuyên đến đây mua về bán lại cho bà con câu cá đồng lẫn ngư dân đi biển”.
Nghề làm lưỡi câu ở phường Mỹ Hòa tồn tại đã hơn 50 năm va đã được UBND tỉnh An Giang công nhận la làng nghề truyền thống từ năm 2007.
Sản phẩm của làng nghề Mỹ Hòa nổi tiếng chắc, bền, nhiều chủng loại, đáp ứng nhu cầu đánh bắt cá trên đồng nước, trên sông và trên biển của ngư dân nên rất được nhiều người đánh bắt ưa chuộng.
Xóm lưỡi câu Mỹ Hòa đang nhộn nhịp vào mùa lũ mang theo bao tín hiệu tốt lành cho bà con vốn đã gắn bó với nghề hàng chục năm qua.
Theo Tam Anh (Báo Vĩnh Long)
An Giang: Mưu sinh vùng sông nước sống kiếp thương hồ
5 giờ sáng, chú Nguyễn Văn Cho (55 tuổi, ngụ khóm Tây Khánh 8, phường Mỹ Hòa, TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang) cùng vợ rời căn nhà ở khu dân cư, lên chiếc đò cặp bến Ô Môi chờ khách. Mấy chục năm sống kiếp thương hồ, xem chiếc đò là nhà, khúc sông là "địa bàn cư trú", bỏ gì thì bỏ, chớ chú không bỏ nghề lái đò. Bỏ sao được, khi "trúng mùa", mỗi ngày chú kiếm được bạc triệu, ế lắm cũng bạc trăm.
Tờ mờ sáng, dòng sông Hậu bị đánh thức bởi tiếng cười nói, những bước chân khuân vác hàng hóa từ ghe này sang thuyền khác. Dòng sông uể oải trở mình, nước vỗ bì bõm vào mạn ghe, thuyền. Người dân chẳng mảy may để ý sự chuyển động nhỏ ấy. Họ đã quá quen với dòng sông, quen với chòng chành sóng nước, quen với việc mở đầu ngày mới bằng những giọt mồ hôi vất vả rồi.
"Chạy đò lâu nên tôi có nhiều khách quen. Họ nhờ chở đi dọc sông Hậu ngắm cảnh, đi chợ nổi chụp hình, ghé cù lao ông Hổ, tham quan địa điểm ăn uống trên sông... Nhờ nghề này, tôi có thể lo được cho 3 đứa con trưởng thành. Cả đời tôi đã sống dưới sông, đến khi lên bờ, từng tuổi này biết làm việc gì khác? Chuyện nhẹ nhàng chẳng đến tay mình, còn làm hồ, khuân vác..., tôi làm không nổi. Tính tới tính lui, tôi vẫn trở lại với nghề" - chú tâm sự.
Ngày mới của thương hồ thời điểm lũ về...
Trong ký ức của chú, hồi xưa khúc sông này nhộn nhịp lắm, hàng trăm chiếc ghe, đò đậu kín bến. Lúc đó, đường sá còn chưa thông, xe cộ hiếm nên người ta ưa chuộng đường sông. Khi có phà lớn, mấy trăm chiếc đò gom lại còn mấy chục chiếc. Chợ nổi thưa ghe dần. Làm ăn khó khăn, người ta dần bỏ con sông, đi tìm con phố mưu sinh.
Cũng có người kiên nhẫn bám trụ với nghề giống chú Cho cũng có thu nhập lai rai. Thời điểm du lịch miệt vườn sông nước lên ngôi, đón tiếp khách phương xa, khách nước ngoài nườm nượp, con đò của họ chạy qua lại như con thoi, vui như Tết!
6 giờ sáng, ánh nắng còn ngủ. Chiếc đò của chúng tôi trôi trên sông, nghe mát lạnh luồn vào mặt, vào tay. Tôi chợt thắc mắc: lênh đênh thế này, mọi người ăn sáng bằng cách nào? Chú Cho chỉ tôi những chiếc xuồng nhỏ bán thức ăn, thức uống gần đó. Người bán hầu như là phụ nữ, họ loay hoay trong chiếc xuồng nhỏ, với lỉnh kỉnh nồi, bếp, tô, chén.
"Chợ điểm tâm" trên sông phong phú lắm, muốn ăn gì cũng có, y hệt trên bờ: cơm tấm, bún cá, bún riêu, hủ tiếu..., mà giá "bèo" hết cỡ, chỉ mười mấy ngàn đổ lại. Thú vị ở chỗ, người mua cứ việc gọi điện thoại đặt thức ăn rồi ngồi chờ trên ghe, thuyền của mình. Người bán chủ động cặp xuồng lại gần, đưa thức ăn đến tận tay, rồi... rời đi bán chỗ khác.
Khách ăn xong, cứ để tô, dĩa, ly trên ghe mình, người bán quay lại gom sau, hổng sợ mất. Có người chỉ chuyên bán 1 loại thức ăn, có người bán nhiều thứ một lúc. Có người lại vừa bán thức ăn lẫn nước uống. Tùy theo điều kiện kinh tế và khả năng "xoay sở" của bản thân, họ sẽ chọn xuồng to hay nhỏ, chèo tay hay sử dụng máy... phù hợp nhất.
"Chợ điểm tâm" di động trên sông
Một chiếc ghe lớn vừa chạy ngang qua, sóng nước ngả nghiêng như muốn lật cả chiếc xuồng nhỏ của chị Trần Thị Muỗi. Chị chan nước vào tô mì gói cho tôi, mà nước sông dường như muốn "chan" vào xuồng chị.
Chị tỉnh bơ, nghiêng người giữ thăng bằng. Khi mặt sông bình lặng lại, chị đưa tô mì cho tôi, vội vã chèo xuồng qua chiếc đò khác. Ở bên này, tô mì nóng hổi lắc lư theo nhịp của chiếc đò. Tôi ngồi ăn trong cái cảm giác chòng chành, lắc lư ấy, lại nhìn dáng chèo xuồng cong cong, chắn gió của chị Muỗi, nghe lòng mình có chút chênh vênh.
Lúc này, xuồng của bà Nguyễn Thị Vàng (56 tuổi) trờ tới. Nghe tôi hỏi chuyện, bà vừa pha trà đường cho tôi, vừa thở dài: "Tôi bán mấy chục năm nay rồi! Sống theo sông nước cực lắm! Ngày nào trời nắng đẹp, êm dịu như vầy tôi bán được mấy chục ly nước. Những hôm mưa bão, mấy chị em bán thức ăn, nước uống như tôi phải đi tìm chỗ núp. Vậy mà sóng lớn còn đánh mớ ly của tôi bể rổn rảng, nhìn xót xa chịu không nổi. Chiếc xuồng tôi thay mấy xác rồi, con cái lớn hết rồi, nhưng nếu bỏ nghề này, tiền đâu mà sống?".
7 giờ sáng, trên mấy chiếc ghe lớn, trái cây nằm chồng lên nhau, bình tĩnh chờ đến lượt mình được chuyển đi. Người mua kẻ bán chưa sôi nổi lắm, vì họ còn tận hưởng buổi sáng sớm, bên dĩa cơm đầy thịt và ly cà phê uống dang dở. Thấy nhóm khách chúng tôi đi tham quan, chụp ảnh, họ nở nụ cười thật tươi, xen lẫn chút ngại ngùng. Có khi, họ gọi với sang hỏi chuyện chú Cho, hẹn thời gian chở khách bên bờ sông. Có khi, họ "í ới" chọc ghẹo nhau: "Tạo dáng đẹp đẹp cho khách chụp hình kìa".
Tôi cất giữ những nụ cười ấy trong máy chụp hình, vội trở về cho kịp giờ làm việc. Nhưng suốt ngày ấy, tôi vẫn cảm thấy bước chân mình chòng chành, nghiêng ngả. Chợt nhớ câu thở dài của chú Cho: "Quen sông nước rồi nên chúng tôi không cảm thấy say sóng gì cả. Nhưng nghề này đắng lắm, nắng gió khiến ai cũng cằn cỗi, già nua hơn tuổi. Tôi yêu nghề, cũng yêu từng khúc sông quê mình. Ngặt nỗi, các con tôi lớn hết rồi, đi làm xa, không đứa nào chịu theo nghề này, không như tôi theo nghề cha mình hồi trước. Sẽ có ngày tôi bỏ con đò, khi không còn sức khỏe nữa. Nhưng còn làm ngày nào, tôi cố gắng làm tốt ngày đó, vừa để kiếm thu nhập, vừa giới thiệu miền quê sông nước của mình đến khách gần xa".
Theo Khánh Hưng (TTMT)
An Giang: Điều trị miễn phí các nạn nhân vụ "xe điên" Ngày 15.9, đoàn công tác Ban An toàn giao thông tỉnh An Giang do Chánh văn phòng Lê Việt Cường dẫn đầu đã đến BVĐK Trung tâm tỉnh An Giang và Bệnh viện Sản Nhi tỉnh An Giang thăm hỏi, hỗ trợ các nạn nhân trong vụ "xe điên" xảy ra vào ngày 14.9 làm 11 người cấp cứu. Đoàn công tác Ban...