Nhiều khó khăn trong đăng kiểm phương tiện thủy
Qua quá trình thực hiện nhiệm vụ đăng kiểm trong phạm vi địa phương được Cục Đăng kiểm Việt Nam giao, Chi cục Đăng kiểm số 1 đã gặp phải một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Lực lượng cảnh sát giao thông đường thủy tuần tra kiểm soát trên tuyến đường thủy trên sông Đà Ảnh: Trọng Đạt/TTXVN
Ông Đinh Quốc Vinh, Giám đốc Chi cục Đăng kiểm số 1 (Cục Đăng kiểm Việt Nam) cho biết, đơn vị hiện nay có nhiệm vụ quản lý chuyên ngành và tổ chức thực hiện việc kiểm tra, chứng nhận chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với phương tiện thủy nội địa trên địa bàn thành phố Hà Nội và 16 tỉnh miền núi phía Bắc gồm: Hòa Bình, Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên.
Qua quá trình thực hiện nhiệm vụ đăng kiểm trong phạm vi địa phương được Cục Đăng kiểm Việt Nam giao, Chi cục Đăng kiểm số 1 đã gặp phải một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Theo ông Đinh Quốc Vinh, khó khăn đầu tiên phải kể đến ý thức của người dân nhất là đồng bào vùng sâu, vùng xa còn hạn chế. Một bộ phận khá lớn chủ phương tiện trong địa bàn Chi cục Đăng kiểm số 1 quản lý là người dân tộc thiểu số ở các tỉnh phía Bắc và Tây Bắc. Mức độ nắm bắt quy định của pháp luật về an toàn giao thông đường thủy nội địa, quy định đăng ký, đăng kiểm của chủ phương tiện, chủ cơ sở đóng, sửa tàu, thuyền có nhiều hạn chế.
“Thậm chí người dân không hiểu bản chất đăng kiểm là hoạt động kiểm tra, chứng nhận về điều kiện an toàn kỹ thuật, bảo vệ môi trường cho phương tiện của chính họ, nhất là trước các diễn biến bất thường, phức tạp như mưa, gió, dông, bão, quá tải khi khai thác, vận hành tàu, thuyền”, ông Đinh Quốc Vinh chia sẻ.
Khó khăn không thể không nhắc tới theo ông Đinh Quốc Vinh phải kể tới đó là cơ sở đóng mới, sửa chữa, hoán cải phương tiện tại các tỉnh trung du miền núi phía Bắc còn thô sơ, mang tính chất dân sinh.
Cụ thể, hiện nay, trừ các doanh nghiệp tại khu vực nhà máy đóng tàu Sông Lô (Phú Thọ), các cơ sở còn lại trong địa bàn hầu hết chưa đạt chuẩn theo quy định. Cục Đăng kiểm Việt Nam đã chỉ đạo Chi cục Đăng kiểm số 1 và phòng chuyên môn hỗ trợ nhiều địa phương về kỹ thuật, tuy nhiên các cơ sở đóng mới, sửa chữa tàu thuyền vẫn còn khiếm khuyết, tồn tại, chưa đạt yêu cầu quy chuẩn nhất là về mặt bằng đất, bến thủy, giấy phép xây dựng,…
Nhiều tỉnh hầu như không có cơ sở đóng mới, hoán cải, sửa chữa phương tiện. Tại các cơ sở thô sơ trên địa bàn, hiện tượng tự đóng phương tiện không có hồ sơ thiết kế được thẩm định, thi công không theo quy trình, không đề nghị cơ quan đăng kiểm giám sát vẫn diễn ra.
Tại các tỉnh miền núi phía Bắc, theo thống kê của Chi cục Đăng kiểm số 1, phương tiện chủ yếu là loại nhỏ, dân dụng của người dân, trong số đó nhiều đồng bào dân tộc thiểu số. Hầu hết phương tiện được đóng từ lâu theo thói quen dựa vào mẫu dân gian và kinh nghiệm. Một số lớn các phương tiện này không tuân thủ quy chuẩn kỹ thuật, do vậy rất khó khăn trong việc chứng nhận đủ điều kiện an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó, khi sử dụng phương tiện, người dân thường xuyên thay đổi thông số kỹ thuật và công dụng phương tiện như thay động cơ, kích thước, chuyển đổi công dụng từ chở hàng thành chở người khi vào mùa lễ hội và ngược lại khi vào mùa vụ khai thác nông sản, …
Ngoài khó khăn trên thì việc thì việc thu phí đăng kiểm rất vất vả do phần nhiều chủ phương tiện nhỏ loại dân sinh, gia dụng là người dân tộc thiểu số miền núi, đồng bào nghèo. Đời sống của chủ phương tiện rất khó khăn, nên việc thu giá, lệ phí đăng kiểm cũng ít nhiều bị ảnh hưởng đặc biệt là giá đăng kiểm phương tiện lần đầu. Hiện nay có gần 200 phương tiện loại nhỏ, vào đăng kiểm lần đầu năm 2021, Chi cục Đăng kiểm số 1 đã lập hồ sơ, in giấy chứng nhận nhưng người dân không nhận do phải trả giá đăng kiểm.
Đề xuất các giải pháp tháo gỡ trong thời gian tới, ông Đinh Quốc Vinh cho hay, Chi cục Đăng kiểm số 1 mong muốn nhận được sự hợp tác, hỗ trợ, phối hợp trong tuyên truyền pháp luật về an toàn giao thông đường thủy nội địa và tổ chức kiểm tra, rà soát, chứng nhận cho phương tiện từ các xã, huyện, tỉnh và các cơ quan tuần tra, kiểm soát. Sự hợp tác, phối hợp từ địa phương và các cơ quan chức năng không những giúp nâng cao hiệu quả công tác đăng kiểm, pháp luật dễ đi vào cuộc sống của bà con vùng sâu, vùng xa mà còn để cùng hiểu, cùng biết và cùng quản lý phương tiện, chủ phương tiện.
Video đang HOT
Giải pháp tiếp theo đó là đơn giản hóa điều kiện đối với cơ sở đóng tàu, ông Đinh Quốc Vinh kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét không đưa nội dung về mặt bằng đất, bến thủy, giấy phép xây dựng trong yêu cầu về điều kiện của cơ sở đóng tàu. Một số cơ sở đóng tàu thuyền dân gian tại khu vực vùng cao không thể đáp ứng điều kiện, đề nghị để tồn tại và sẽ tuyên truyền, nâng cao chất lượng trong thời gian nhất định.
Đặc biệt giải pháp quan trọng theo ông Vinh đó là cần mở rộng phạm vi phương tiện không thuộc diện đăng ký, đăng kiểm bởi các phương tiện dân sinh, gia dụng tại các tỉnh (Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Bắc Giang, Hòa Bình…) thường nhỏ, chỉ hoạt động vì mục đích dân sinh theo mùa vụ, tham gia giao thông đường thủy ở cự ly ngắn, phạm vi hẹp trong các sông, suối, hồ. Việc áp dụng các quy định về đăng ký, đăng kiểm theo quy định của Luật Giao thông đường thủy nội địa cho loại phương tiện này còn nhiều bất cập.
ADVERTISING
X
“Khi sửa Luật Giao thông đường thủy nội địa, Chi cục Đăng kiểm số 1 đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét đưa ra quy định phù hợp cho loại phương tiện chở hàng có trọng tải toàn phần từ 5 đến 15 tấn, công suất máy từ 5 đến 15 mã lực”, ông Đinh Quốc Vinh cho hay.
Theo lãnh đạo Cục Đăng kiểm Việt Nam, thời gian qua, các đơn vị chức năng đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm tạo điều kiện cho các chủ thuyền có điều kiện làm thủ tục đăng ký, đăng kiểm. Đặc biệt, các cơ quan đăng ký của đã phối hợp với nhiều cơ quan liên ngành tăng cường tuyên tuyền các chủ phương tiện về các quy định của pháp luật cũng như các điều kiện về an toàn giao thông đường thủy. Tuy nhiên vì nhiều nguyên nhân vẫn còn một bộ phận không nhỏ chủ thuyền vẫn chưa tiến hành đăng ký, đăng kiểm như quy định.
Đề tăng cường các giải pháp nâng cao việc đăng kiểm các phương tiện thủy, qua đó nâng cao an toàn giao thông đường thủy, lãnh đạo Cục Đăng kiểm Việt Nam cho hay, Cục Đăng kiểm Việt Nam đã làm việc với các địa phương về hoạt động đăng ký, đăng kiểm phương tiện thủy nội địa. Hàng năm, Cục Đăng Kiểm Việt Nam đã phối hợp với các cơ quan chức năng thành lập các đoàn kiểm tra các điểm nóng về phương tiện thủy giao thông thủy nội địa.
Để tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp, trong thời gian qua các thủ tục đăng ký, đăng kiểm nói chung và đăng ký đăng kiểm phương tiện thủy nói riêng đã được Bộ Giao thông Vận tải, Cục Đăng kiểm Việt Nam cắt giảm tối đa tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
Tuy nhiên, đối với những phương tiện người dân và doanh nghiệp đã đóng trước đó không có thiết kế, không cớ sự giám sát của cơ quan đăng kiểm, những phương tiện này không theo một phương thức tiêu chuẩn nào… nên không đáp ứng tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật. Đây là vướng mắc chưa có giải pháp để giải quyết (vì muốn thỏa mãn yêu cầu kỹ thuật, đảm bảo an toàn thì chủ phương tiện cần phải sửa chữa, hoán cải và thử nghiệm lại, như vậy cần đầu tư kinh phí). Trong thời gian tới, Cục Đăng kiểm Việt Nam sẽ phối hợp với các ngành chức năng đề nghiên cứu đề xuất các giải pháp phù hợp.
Được biết, năm 2021 và 3 tháng đầu năm 2022, Chi cục Đăng kiểm số 1 đã kiểm tra, chứng nhận cho hơn 2.700 lượt phương tiện thủy nội địa. Bên cạnh đó, đơn vị này cũng đã phối hợp với các cơ quan chức năng các địa phương tập trung thực hiện công tác đăng kiểm mới, đăng kiểm lần đầu cho phương tiện cỡ nhỏ nhiều nhất là tại các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Bắc Giang, Bắc Kạn, Yên Bái. Qua hơn 10 kỳ phối hợp, rà soát đã đăng kiểm lần đầu được 294 phương tiện. Thông qua các đợt phối hợp đăng kiểm với địa phương đã phát 400 bộ hồ sơ tuyên truyền về an toàn thông đường thủy nội địa.
Phát triển kinh tế vùng ĐBSCL: Động lực mới từ hoàn thiện hạ tầng giao thông
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, đánh giá tổng kết thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị chỉ rõ, hạ tầng giao thông vận tải vẫn là điểm nghẽn của nền kinh tế và trong đó có vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết 13-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong Nghị quyết này, Bộ Chính trị đã đưa ra nhiệm vụ và giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống giao thông vùng Đồng bằng sông Cửu Long đồng bộ, hiện đại.
Phóng viên TTXVN có cuộc phỏng vấn Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Duy Lâm xung quanh vấn đề này.
Thành phố Cần Thơ phát triển dọc theo hai bên bờ sông Hậu. Ảnh minh họa: Phan Tuấn Anh/TTXVN
Thứ trưởng có thể đánh giá hiện trạng hạ tầng giao thông vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay?
Hệ thống giao thông vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện có 4 phương thức vận tải; trong đó thế mạnh là giao thông đường thủy, sau đó là đường bộ, hàng hải và hàng không.
Qua tổng kết, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá IX về phát triển Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2001-2020 cho thấy, nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã có sự thay đổi rõ rệt. Hệ thống đường bộ đang được đầu tư với chiều dài khoảng 2.688 km, tăng 52% so với năm 2002; 100% các xã có đường ô tô đến trung tâm xã. Đặc biệt, chương trình xóa "cầu khỉ" đã được đẩy mạnh trong suốt thời gian qua với nhiều nguồn vốn khác nhau.
Hệ thống cảng thủy nội địa và nâng cấp luồng lạch các tuyến sông chính hiện đã hoàn thành nâng cấp 6 tuyến vận tải thủy chính kết nối Tp. Hồ Chí Minh và Đông Nam Bộ với vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nâng cấp giai đoạn 1 kênh Chợ Gạo.
Hạ tầng cảng biển đã và đang được đầu tư theo nhu cầu vận tải của khu vực, hoàn thành việc đầu tư, nâng cấp cảng Cần Thơ, Hòn Chông và các cảng nằm dọc trên tuyến vận tải chính của sông Tiền, sông Hậu.
Về hàng không, cảng hàng không quốc tế Cần Thơ, Phú Quốc; cảng hàng không Cà Mau, Rạch Giá đã được nâng cấp với tổng công suất 7,45 triệu khách/năm và 12.000 tấn hàng hóa/năm.
Về đường sắt, hiện đang triển khai lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi tuyến đường sắt Tp. Hồ Chí Minh - Mỹ Tho - Cần Thơ, dự kiến kêu gọi đầu tư bằng nguồn vốn ngoài ngân sách nhằm tăng cường kết nối Tp. Hồ Chí Minh với các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Vậy đâu là điểm nghẽn về hạ tầng giao thông cần được tháo gỡ cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long, thưa Thứ trưởng?
Thực tế, vùng Đồng bằng sông Cửu Long dù đã được Đảng và Chính phủ quan tâm đầu tư, tuy nhiên kết cấu hạ tầng giao thông vẫn chưa đồng bộ, còn nhiều hạn chế. Đường bộ còn nhỏ hẹp, nhiều tuyến mới chỉ được láng nhựa, vì thế chưa đáp ứng nhu cầu vận tải, đặc biệt là đòi hỏi về vận tải hành khách, hàng hóa với thời gian nhanh, chất lượng cao, đường bộ cao tốc trong vùng đến thời điểm này mới có gần 100 km. Vùng chưa có cảng biển nước sâu để có thể làm đầu mối xuất nhập khẩu hàng hóa đi các nước trong khu vực và đi các tuyến biển xa...; chưa phát huy được lợi thế tự nhiên của hệ thống đường thủy nội địa, tính kết nối giữa các phương thức vận tải còn hạn chế...
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, đánh giá tổng kết thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị chỉ rõ, hạ tầng giao thông vận tải vẫn là điểm nghẽn của nền kinh tế và trong đó có vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Nguyên nhân chủ yếu do đặc điểm của vùng Đồng bằng sông Cửu Long địa hình bị chia cắt bởi hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, nền địa chất yếu, bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu và nước biển dâng, do đó, suất đầu tư xây dựng cao so với các khu vực khác trên cả nước. Mặc dù đã được Đảng, Nhà nước quan tâm bố trí nguồn lực không nhỏ cho đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông nhưng Đồng bằng sông Cửu Long vẫn được rất ít công trình. Ví dụ làm một con đường nhưng mất rất nhiều kinh phí để xử lý nền đất yếu. Do đó, số lượng km đường hay công trình giao thông như cầu cống...ít hơn so với khu vực khác. Vì thế, việc đi lại, lưu thông của vùng Đồng bằng sông Cửu Long vẫn rất khó khăn.
Để thực hiện thành công Nghị quyết 13-NQ/TW, Bộ Giao thông Vận tải cần thực hiện những nhiệm vụ và giải pháp gì để hoàn thiện hệ thống giao thông vùng Đồng bằng sông Cửu Long, thưa Thứ trưởng?
Để thực hiện thành công Nghị quyết 13-NQ/TW, Bộ Giao thông Vận tải đã xây dựng một số nhiệm vụ, giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống giao thông vùng Đồng bằng sông Cửu Long như sau:
Thực hiện Luật Quy hoạch, Bộ Giao thông Vận tải đã rà soát, đánh giá, căn cứ các điều kiện đặc thù, lợi thế của các phương thức vận tải của từng vùng, miền; trong đó có Đồng bằng sông Cửu Long để xây dựng quy hoạch tốt nhất. Đây là lần đầu tiên triển khai đồng thời 5 quy hoạch ngành quốc gia, là điều kiện thuận lợi để hoàn thành xây dựng quy hoạch hệ thống giao thông đồng bộ, hiện đại, bảo đảm kết nối hiệu quả giữa các phương thức nhằm tái cơ cấu thị phần vận tải, nâng cao chất lượng vận tải và giảm chi phí logistics.
Về đường bộ, sẽ hình thành mạng lưới đường bộ cao tốc gồm 3 trục dọc và 3 trục ngang cùng với 33 tuyến quốc lộ dài khoảng 3.611 km, đảm nhận vai trò gom hành khách, hàng hóa để kết nối với các tuyến cao tốc xương sống chính của vùng.
Về hàng hải, sẽ xây dựng cơ chế chính sách kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cảng biển trong khu vực để phát huy tiềm năng lợi thế. Cùng với đó, Bộ Giao thông Vận tải đã hoạch định xây dựng cảng biển nước sâu khu vực Trần Đề trở thành cảng đầu mối để xuất nhập khẩu hàng hóa của vùng đi các tuyến biển xa.
Trong khi đó về đường thủy nội địa, đưa vào cấp kỹ thuật các luồng tuyến vận tải thủy nội địa chính, hiện đại hóa thiết bị bốc dỡ các cảng sông, xây dựng các bến tàu khách quốc tế phục vụ cho vận tải hành khách và du lịch của vùng.
Đối với hàng không, các cảng hàng không trong vùng sẽ được đầu tư, nâng công suất từ 7,45 triệu hành khách/năm hiện nay lên 18,5 triệu hành khách/năm; bổ sung vào quy hoạch thành phố Cần Thơ kho hàng hóa, trung tâm logistics tại cảng hàng không quốc tế Cần Thơ để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa có giá trị cao, thời gian ngắn.
Về đường sắt, Bộ Giao thông Vận tải sẽ tập trung nguồn lực hoàn thành tuyến đường sắt kết nối Tp. Hồ Chí Minh với Cần Thơ.
Các quy hoạch chuyên ngành quốc gia này đã được tích hợp trong quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long và các địa phương sẽ tích hợp trong quy hoạch tỉnh. Do vậy, cùng với hệ thống giao thông của địa phương, kết cấu hạ tầng giao thông vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ tạo thành một chỉnh thể hoàn chỉnh, là tiền đề, động lực thúc đẩy phát triển kinh tế cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Để đầu tư hoàn thiện hệ thống giao thông vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Bộ Giao thông Vận tải xác định, huy động, phân bổ nguồn vốn đầu tư có trọng tâm, trọng điểm vào các công trình động lực, có tính lan tỏa, kết nối giữa các phương thức. Đồng thời, khai thác có hiệu quả nguồn lực từ tài sản kết cấu hạ tầng được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước thông qua hình thức nhượng quyền khai thác.
Các địa phương trong vùng cần khẩn trương hoàn thành quy hoạch tỉnh đảm bảo phù hợp, đồng bộ với các quy hoạch ngành quốc gia và quy hoạch vùng.
Trên cơ sở đó, xây dựng danh mục dự án ưu tiên đầu tư giai đoạn 2021-2030 để tập trung huy động nguồn lực, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, kết nối đồng bộ và phát huy hiệu quả các dự án hạ tầng của quốc gia trên địa bàn. Bên cạnh đó, các địa phương cần hỗ trợ đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng cho các dự án trong khu vực; tạo điều kiện thuận lợi về nguồn vật liệu, công bố giá kịp thời, sát thực tế để phục vụ triển khai các dự án đầu tư xây dựng.
Khi xây dựng các công trình hạ tầng mới, đặc biệt là các công trình đường bộ cao tốc, cần đi xa các tuyến đường cũ để tạo thêm không gian mới, làm động lực để phát triển các khu đô thị, khu công nghiệp mới trong vùng, khai thác quỹ đất hình thành từ hoạt động đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông để tái đầu tư phát triển.
Với sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương, Bộ Giao thông Vận tải tin tưởng rằng, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông trong vùng sẽ được đẩy mạnh đầu tư, từng bước đồng bộ, hiện đại, tạo lập được cơ cấu vận tải hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, góp phần thực hiện thành công Nghị quyết 13-NQ/TW trong thời gian tới.
Xin cảm ơn Thứ trưởng!
Cận cảnh quy trình đăng kiểm xe ô tô và biểu phí mới nhất năm 2022 Đăng kiểm xe ô tô là quá trình cơ quan chuyên ngành kiểm định chất lượng xe xem có đạt tiêu chuẩn hay không, bao gồm các tiêu chuẩn: An toàn kỹ thuật (hệ thống phanh, thước lái, chiếu sáng, mức độ bảo vệ môi trường...). Nếu xe đạt yêu cầu sẽ được cấp hoặc gia hạn cho phép xe ô tô được...