Nhiều dự án FDI “khủng” vào Việt Nam tháng đầu năm mới
Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong tháng 1/2021 gồm vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần đã đạt hơn 2 tỷ USD.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong tháng 1/2021, bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài là hơn 2 tỉ USD.
Các doanh nghiệp nước ngoài đã đầu tư vào 14 ngành, lĩnh vực, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt gần 1,54 tỉ USD, chiếm 76,4% tổng vốn đầu tư đăng ky.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/01/2021 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt hơn 2 tỷ USD, giảm 62,2% so với cùng kỳ năm 2020. (Ảnh minh họa)
Nếu tính theo nguồn gốc đầu tư, đã có 33 quốc gia và vùng lãnh thổ rót vốn vào Việt Nam. Trong đó, Singapore là nhóm nhà đầu tư lớn nhất với tổng vốn 680,7 triệu USD, tương đương 34% tổng vốn vào Việt Nam. Theo sau là nhóm nhà đầu tư Trung Quốc đại lục với 618 triệu USD (31%). Nhóm nhà đầu tư từ Hong Kong đứng thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký 221,3 triệu USD (11%)…
Video đang HOT
Đáng chú ý, trong những tháng đầu năm 2021, đã có nhiều dự án FDI “khủng” được đầu tư tại các địa phương của Việt Nam, nổi bật như tại Hải Phòng, Bắc Giang, Quảng Ninh, Đồng Nai…
Cụ thể, trong tháng 1, Đà Nẵng đã cấp chứng nhận đăng ký đầu tư cho Dự án Nhà máy Sản xuất vật liệu bán dẫn United States Enterprises (Mỹ) với tổng vốn đăng ký 110 triệu USD.
Tại Đồng Nai, chỉ trong nửa đầu tháng 1/2021, tỉnh này đã thu hút 11 dự án FDI, gồm 3 dự án cấp mới, 8 dự án tăng vốn với tổng số vốn đầu tư hơn 226 triệu USD. Đây cũng là mức vốn FDI vào Đồng Nai cao nhất trong 5 năm qua.
Tại Bắc Giang, tỉnh này cũng đã trao giấy chứng nhận đầu tư cho 4 dự án FDI lớn trong tháng 1. Trong đó có Dự án nhà máy Fukang Technology của Công ty Foxconn Singapore PTE Ltd tại Khu công nghiệp Quang Châu với vốn đăng ký 270 triệu USD. Đây là một trong những nhà máy sản xuất iPhone, iPad, MacBook cho Apple với quy mô sản xuất khoảng 8 triệu sản phẩm/năm.
Ba dự án FDI còn lại tại Bắc Giang được trao chứng nhận đầu tư trong tháng 1 gồm Dự án công nghệ tế bào quang điện Ja Solar PV VN của Công ty Ja Solar Investment (Hong Kong) Limited đầu tư, vốn đăng ký 210 triệu USD; Dự án nhà máy Risesun New Material VN của Công ty Risesun Investment Pte.Ltd (Singapore), vốn đăng ký 75 triệu USD; Dự án nhà máy Kodi New Material VN do Công ty Risesun Investment Pte.Ltd (Singapore), vốn đăng ký 6 triệu USD.
Những ngày đầu tháng 2 vừa qua cũng ghi nhận nhiều dự án FDI lớn được các địa phương cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Trong đó có dự án 750 triệu USD của LG Display Co., Ltd thuộc Tập đoàn LG Hàn Quốc đầu tư tại Khu công nghiệp Tràng Duệ (Hải Phòng).
Đây là phần vốn đầu tư tăng thêm được điều chỉnh từ tổng vốn đầu tư 2,5 tỷ USD đã đầu tư trước đó. Mục tiêu dự án là mở rộng sản xuất các sản phẩm màn hình OLED TV, màn hình OLED nhựa cho các thiết bị, màn hình LCD…
Cũng trong tháng 2, Ban Quản lý Khu kinh tế Quảng Ninh đã trao Giấy chứng nhận đầu tư cho dự án nhà máy Lioncore Việt Nam với tổng mức đầu tư 30 triệu USD.
Dự kiến trong quý I/2021, Ban Quản lý Khu kinh tế Quảng Ninh cũng sẽ hướng dẫn các nhà đầu tư hoàn thiện các thủ tục chuẩn bị và cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho 6 dự án đầu tư mới và 1 dự án điều chỉnh tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký trên 200 triệu USD. Các dự án này đều thuộc lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo phù hợp với định hướng chiến lược của tỉnh .
Thanh Hóa phấn đấu là tỉnh kiểu mẫu, phát triển toàn diện
Chính phủ vừa ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 58-NQ/TW ngày 5/8/2020 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển tỉnh Thanh Hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Một góc thành phố Thanh Hóa
Chương trình hành động nhằm cụ thể hóa mục tiêu, các nhiệm vụ và giải pháp nêu tại Nghị quyết số 58-NQ/TW của Bộ Chính trị; xác định rõ các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể và thiết thực gắn với kế hoạch tổ chức theo lộ trình phù hợp để thực hiện thắng lợi mục tiêu của Nghị quyết.
Tỉnh Thanh Hóa phấn đấu giai đoạn 2021 - 2025 tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm GRDP đạt 11% trở lên; tốc độ tăng năng suất lao động đạt trên 9,6%; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân hằng năm từ 1,5% trở lên; đến năm 2025, GRDP/người đạt 5.200 USD trở lên; kim ngạch xuất khẩu đạt 8 tỷ USD; 17 đơn vị cấp huyện, 88% số xã đạt nông thôn mới, 25% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 8% số xã đạt nông thôn mới kiểu mẫu;... Tầm nhìn đến năm 2045, Thanh Hóa là tỉnh giàu đẹp, văn minh và hiện đại; tỉnh phát triển toàn diện và kiểu mẫu của cả nước.
Để đạt mục tiêu cụ thể nêu trên, trong thời gian tới, bên cạnh các nhiệm vụ thường xuyên, các bộ, cơ quan trung ương, UBND tỉnh Thanh Hóa cần cụ thể hóa và tổ chức triển khai thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp: Hoàn thiện thể chế, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách; xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù; xây dựng tỉnh Thanh Hóa trở thành một cực tăng trưởng mới của khu vực và cả nước với công nghiệp nặng, nông nghiệp quy mô lớn, hiệu quả cao là nền tảng; các ngành công nghiệp năng lượng, công nghiệp chế biến, chế tạo và dịch vụ logistics là đột phá; du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn; phát triển nhanh kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là kết cấu hạ tầng đô thị, hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại, kết nối các vùng, miền, các cực tăng trưởng; phát triển mạnh các thành phần kinh tế; chú trọng phát triển kinh tế biển và ven biển, tạo đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững;...
Trong đó, phát triển ngành công nghiệp theo hướng kết hợp hài hòa cả chiều rộng và chiều sâu, trong đó trọng tâm là phát triển công nghiệp năng lượng và chế biến, chế tạo; phát triển hợp lý các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế; ưu tiên thu hút một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao, các ngành năng lượng mới, năng lượng tái tạo để tạo ra các động lực tăng trưởng mới. Đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, từng bước hình thành và phát triển một số cụm liên kết các ngành công nghiệp chủ lực.
Cơ cấu lại công nghiệp theo hướng nâng cao trình độ công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, thay đổi phương thức sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp công nghiệp theo hướng tăng khả năng kết nối, tiếp cận thông tin, dữ liệu, sản xuất những sản phẩm mà xã hội cần nhằm tăng cơ hội kinh doanh mới và tăng khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực.
Ưu tiên phát triển ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới; ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp để đạt hiệu quả cao, hình thành các vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, chất lượng cao;..
Phát triển toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm 3 vùng kinh tế - xã hội theo hướng: Phát triển bền vững vùng miền núi, là vùng có vai trò bảo đảm an ninh môi trường sinh thái; an ninh nguồn nước; quốc phòng, an ninh và đại đoàn kết các dân tộc; 2- Phát triển nhanh và bền vững vùng đồng bằng và trung du, là vùng đóng vai trò trung tâm với 3 cực tăng trưởng là thành phố Thanh Hóa, thị xã Bỉm Sơn và thị trấn Lam Sơn; 3- Phát triển đột phá và bền vững vùng ven biển và hải đảo với 2 cực tăng trưởng là thị xã Nghi Sơn và thành phố Sầm Sơn.
Phấn đấu đến hết năm 2025, cả nước trồng được ít nhất một tỷ cây xanh Theo Đề án "Trông một ty cây xanh giai đoạn 2021 - 2025" do Bộ NN&PTNT xây dựng, phấn đấu đến hết năm 2025, cả nước trồng được ít nhất một tỷ cây xanh. Trong đó, 690 triệu cây xanh trồng phân tán ở các khu đô thị và vùng nông thôn; 310 triệu cây xanh trồng tập trung trong rưng phòng hộ,...