Nhiễm khuẩn bệnh viện gây nhiều biến chứng nguy hiểm
Mức độ độc hại, gây biến chứng và t.ử von.g của nhiễm khuẩn bệnh viện cao hơn so với nhiễm khuẩn cộng đồng, chủ yếu do bệnh nhân đề kháng yếu và có nguy cơ tiếp xúc với nhiều loại vi khuẩn đa kháng thuố.c chỉ có trong bệnh viện.
Chị Tâm (quận 3, TP HCM) vừa về nhà sau gần một tháng nằm viện vì phẫu thuật cắt ung thư đại tràng. “Những người mổ như tôi chỉ nằm viện một tuần rồi về. Nhưng bác sĩ chẩn đoán miệng nối đại tràng bị xì, bị nhiễm khuẩn bệnh viện nên phải nằm đây cả tháng trời”. Đây là một trong số những bệnh nhân mắc phải nhiễm khuẩn bệnh viện. Theo đó, nhiễm khuẩn bệnh viện là những lây nhiễm người bệnh mắc phải trong 48 – 72 giờ sau khi nhập viện.
“Tất cả các bệnh nhân khi nhập viện đều đối mặt với nguy cơ nhiễm khuẩn bệnh viện, từ viêm phổi, nhiễ.m trùn.g đường tiết niệu, nhiễ.m trùn.g huyết, nhiễ.m trùn.g ổ bụng… Đặc biệt, với bệnh nhân trải qua thủ thuật xâm nhập như phẫu thuật, dù trong điều kiện nào thì 90% các vết mổ khi khâu lại đã có sự hiện diện của vi trùng. Nhiều người bệnh có tâm lý chịu đau kéo dài mới vào viện, khiến việc mổ trễ, mổ nhiều lần dẫn đến nhiễ.m trùn.g, trường hợp nặng có thể gâ.y số.c nhiễm trùng. Tại những nước tiên tiến nhất trên thế giới như Mỹ, dù được can thiệp đúng nguyên tắc, sử dụng thuố.c tốt, tỷ lệ t.ử von.g rất cao, đến 35%”, Giáo sư, bác sĩ Lê Quang Nghĩa, chủ tịch hội Phẫu thuật tiêu hoá TP HCM nhận định.
Nhiễm khuẩn bệnh viện gây quá tải, giảm chất lượng và uy tín bệnh viện, trở thành gánh nặng chăm sóc y tế.
Tổ chức Y tế Thế giới WHO đán.h giá, tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện tại các quốc gia châu Âu khoảng 5%, trong khi con số này tại các nước thu nhập thấp và trung bình là 5,7%-19,1%. Đây là một trong các nguyên nhân hàng đầu đ.e dọ.a sự an toàn của người bệnh, tăng biến chứng, ngày điều trị, chi phí nằm viện, tỷ lệ t.ử von.g. Nhiễm khuẩn bệnh viện cũng gây quá tải, giảm chất lượng và uy tín bệnh viện và trở thành gánh nặng chăm sóc y tế. Nguyên nhân là do chưa đủ nguồn lực cho công tác kiểm soát nhiễm khuẩn, cơ sở hạ tầng còn kém phát triển, bệnh viện quá tải, đán.h giá về sự nguy hiểm của nhiễm khuẩn bệnh viện còn chưa đúng mức.
Video đang HOT
Theo các chuyên gia y tế, biện pháp đơn giản và ít tốn kém nhất để phòng chống nhiễm khuẩn bệnh viện là vệ sinh bàn tay trước và sau mỗi lần tiếp xúc với bệnh nhân, trước khi làm các thủ thuật vô khuẩn, sau khi tiếp xúc với dụng cụ y tế nhiễm khuẩn. Bên cạnh đó, cũng cần phải thực hiện nghiêm ngặt các kỹ thuật vô khuẩn với các dụng cụ phẫu thuật, nội soi…
Kháng sinh cũng hữu hiệu để chống nhiễ.m trùn.g bệnh viện đối với nhiễ.m trùn.g ngoại và nội khoa. Đặc biệt với nhiều loại phẫu thuật có nguy cơ rủi ro cao, nếu biết dùng đúng kháng sinh sẽ có tác dụng tốt trong việc chống lại nhiễm khuẩn bệnh viện. Tuy nhiên, việc lạm dụng thuố.c đang khiến cho tình trạng kháng kháng sinh của vi khuẩn gia tăng, xuất hiện nhiều loại vi khuẩn đa kháng thuố.c, gây khó khăn cho công tác điều trị. Mỗi khi kháng được một loại kháng sinh, vi khuẩn trở nên nguy hiểm hơn. “Việc nghiên cứu và sản xuất ra kháng sinh mới có thể kéo dài đến vài chục năm, trong khi tiến trình đề kháng kháng kháng sinh của vi khuẩn diễn ra rất nhanh. Do đó, hiện không nhiều hãng dược phẩm đầu tư vào thị trường này, dẫn đến khan hiếm nguồn kháng sinh”, Giáo sư Nghĩa cho biết thêm.
Phương Thảo
Theo VNE
Sử dụng thuố.c tra mắt thế nào là đúng?
Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều loại thuố.c tra mắt. Nhưng việc sử dụng thuố.c tra mắt đúng cách không phải ai cũng biết, bạn có thể không hoặc lâu khỏi bệnh, thậm chí bị biến chứng chỉ vì dùng không đúng cách.
Ảnh minh họa.
ThS.DS Nguyễn Mai Lan, Phó trưởng khoa Dược, Bệnh viện Mắt Trung ương, cho biết hầu hết các chế phẩm nhỏ mắt có trên thị trường đều ở dạng dung dịch, được cung cấp dưới dạng các lọ nhỏ giọt. Khi nhỏ thuố.c, tránh chạm tay vào đầu ống nhỏ giọt có thể dẫn đến ô nhiễm thuố.c và có thể gây ra chấn thương mắt. Với dịch treo, trước khi sử dụng nên lắc lọ thuố.c để cung cấp liều lượng thuố.c chính xác. Tuyệt đối không được để đầu lọ thuố.c tra mắt tiếp xúc với mắt vì lọ thuố.c có thể bị nhiễm khuẩn không còn tác dụng. Thuố.c đã mở ra dùng chỉ được sử dụng trong vòng 1 tháng, để nơi thoáng mát tránh ánh sáng.
Rửa tay kỹ trước khi tra, nhỏ thuố.c: Để nhỏ thuố.c dạng dung dịch chúng ta cần rửa tay kỹ trước khi nhỏ; ngửa đầu hay nằm xuống và nhìn lên trên; nhẹ nhàng nắm mi mắt dưới lông mi và kéo khỏi mắt để tạo thành một túi; đặt ống nhỏ giọt thẳng phía trên mắt; không để ống nhỏ giọt tiếp xúc với ngón tay, mắt hoặc bất kỳ bề mặt nào; giữ khoảng cách từ mắt đến đầu ống nhỏ giọt khoảng 2,5 cm.
Khi nhỏ mắt, tránh chạm tay vào đầu ống nhỏ giọt để không gây ô nhiễm thuố.c: Cần nhìn lên trên trước khi nhỏ một giọt thuố.c vào mắt; thả mi mắt ra từ từ và nhẹ nhàng nhắm mắt lại; với đôi mắt khép kín, dùng áp lực nhẹ nhàng của một ngón tay ấn vào góc bên trong của mắt 2 đến 3 phút để làm chậm thoát dung dịch thuố.c; không rửa ống thuố.c; không sử dụng thuố.c nhỏ mắt có thay đổi màu sắc hoặc có chứa chất kết tủa; nếu dùng hơn một loại thuố.c nhỏ mắt thì chờ tối thiểu là 5-10 phút trước khi nhỏ loại thứ 2.
Dùng thuố.c nước trước thuố.c mỡ
Ngoài dung dịch thì còn có các dạng sau đây:
- Nhũ tương: Là hỗn hợp của dầu và nước, cách nhỏ thuố.c như dung dịch và dịch treo nhưng khác ở chỗ là không phải lắc trước khi dùng.
- Mỡ: Mục đích chính của mỡ tá dược trong nhãn khoa là kéo dài thời gian tác dụng của thuố.c trên bề mặt nhãn cầu. Thuố.c thường được sử dụng cho tr.ẻ e.m vì trẻ thường khóc mỗi khi nhỏ thuố.c; điều trị các tổn thương khác ở bán phần trước của mắt như xước giác mạc. Khi phải dùng cả thuố.c nước và thuố.c mỡ thì dùng thuố.c nước trước khi dùng thuố.c mỡ vì thuố.c mỡ làm giảm sự hấp thu thuố.c nước.
Khi sử dụng thuố.c mỡ, chú ý rửa tay kỹ trước khi nhỏ thuố.c; ngửa đầu hay nằm xuống và nhìn lên trên; nhẹ nhàng nắm dưới mi mắt dưới lông mi và kéo mí mắt khỏi mắt để tạo thành một túi; đặt 1-1,5 cm thuố.c mỡ vào sâu bên trong túi mi mắt bằng cách ép tuýp thuố.c nhẹ nhàng và từ từ bỏ mí mắt ra; đóng mắt từ 1 đến 2 phút; có thể xảy ra nhìn mờ tạm thời; tránh các hoạt động đòi hỏi thị lực cho đến khi hết mờ; loại bỏ thuố.c mỡ quá mức xung quanh mắt hoặc đầu ống thuố.c mỡ bằng khăn giấy vô khuẩn; nếu sử dụng hơn một loại thuố.c mỡ thì chờ khoảng 10 phút mới dùng đến loại thứ 2.
- Dạng keo (gel): Thuố.c dạng này thường được dùng cho bệnh nhi. Các thuố.c hay dùng dạng này là thuố.c dãn đồng tử hay liệt cơ thể mi. Thuố.c được cung cấp bằng một dụng cụ phun mù hoặc lọ xịt vô khuẩn.
- Dạng chải mi: Sản phẩm thương mại hiện có là chất tẩy rửa mí mắt, dung dịch hoặc mỡ kháng sinh, được đưa trực tiếp vào mi mắt để điều trị viêm bờ mi. Dạng này có thể sử dụng bằng cách đưa thuố.c vào đầu tăm bông và chà lên bờ mi nhiều lần mỗi ngày. Các sản phẩm thương mại cung cấp dưới dạng miếng gạc với chất tẩy rửa mí mắt cũng rất thuận tiện trong sử dụng.
Thận trọng khi dùng thuố.c mỡ
Thuố.c mỡ có thể làm mờ tầm nhìn nên phải dùng thận trọng trong điều kiện đòi hỏi hình ảnh rõ ràng (ví dụ lái xe, vận hành thiết bị máy móc, đọc sách, báo...) hoặc sử dụng trước khi đi ngủ; kiểm soát ngày hết hạn chặt chẽ; không sử dụng thuố.c đã hết hạn. Thuố.c nước và thuố.c mỡ rất hay bị dùng sai. Vì vậy, thầy thuố.c cũng không nên cho rằng bệnh nhân đã biết làm thế nào để tối đa hóa việc sử dụng an toàn và hiệu quả của các loại thuố.c này mà phải hướng dẫn bệnh nhân cụ thể cách sử dụng thuố.c.
Theo Vnmedia
Có nên tiêm vắc xin sau khi mắc thủy đậu? Rất nhiều cha mẹ băn khoăn liệu có nên đưa con đi tiêm vắc xin phòng bệnh thủy đậu sau khi con mình đã bệnh này. Ảnh minh họa: Internet BS trả lời: Bệnh thủy đậu (còn gọi là trái rạ) là một bệnh truyền nhiễm do siêu vi khuẩn varicella-zoster gây ra. Bệnh xảy ra ở hầu hết mọi lứa tuổ.i, nhưng...